"Tối qua, những người khuân vác đã đưa tôi xuống tầng hầm bằng chiếc xe đẩy của siêu thị. Tôi gặp những nhà sư trùm kín đầu, những người đánh cắp linh hồn của tôi và biến tôi thành một thây ma. Tôi đã tỉnh dậy trong quan tài của chính mình".
"Tôi nghe lỏm thấy các y tá thì thầm sau tấm rèm rằng họ ám hại tôi và con tôi. Tôi thấy một người rút khẩu súng từ túi xách".
"Một con thú hoang điên cuồng chạy qua khu chợ bệnh viện, tấn công mọi người cho tới khi nó bị bắn hạ".
Đó là những trải nghiệm đáng sợ và kỳ lạ mà tiến sĩ Dorothy Wade, nhà tâm lý học của khoa chăm sóc tích cực (ICU) tại bệnh viện Đại học Cao đẳng London, được các bệnh nhân chia sẻ hằng ngày. Nhiều bệnh nhân Covid-19 mắc chứng ảo giác hoặc ảo tưởng do thuốc, tình trạng nhiễm trùng, thiếu oxy trong thời gian dài ở ICU.
Theo một nghiên cứu năm 2008 công bố trên Thư viện Y khoa Quốc gia Mỹ, 80% bệnh nhân ở ICU bị mê sảng. Để bệnh nhân vượt qua thời gian thở máy, bác sĩ thường chỉ định dùng thuốc hướng thần, giúp họ bình tĩnh, thoải mái và dễ ngủ, mặt khác lại khiến người bệnh hay quên, bối rối và mê sảng. Tình trạng mê sảng thường biến mất khi bệnh nhân xuất viện, nhưng ảo giác, cùng với các sang chấn khác, có thể đeo bám họ nhiều tháng, thậm chí nhiều năm.
Những ký ức đáng sợ trở thành một phần của hội chứng hậu ICU (PICS). Hội chứng không chỉ làm bệnh nhân đau nhức toàn thân và ảnh hưởng hệ hô hấp, mà còn tác động đến tâm trí. Đối với nhiều người, di chứng đáng sợ nhất là hiện tượng "sương mù não", khiến họ mất tập trung, suy giảm trí nhớ, khó khăn trong việc tổ chức cuộc sống cá nhân.
Có đến 50% bệnh nhân mắc chứng lo âu nghiêm trọng, trầm cảm hoặc rối loạn căng thẳng sau thời gian điều trị ở ICU, theo một nghiên cứu năm 2018 đăng trên tạp chí y khoa quốc tế Critical Care. Không có gì ngạc nhiên khi PICS ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống, các mối quan hệ và sinh kế của bệnh nhân. Người ta có thể quên uống thuốc hoặc mất khả năng lái xe hay quản lý tài chính.
Vấn đề tâm lý của bệnh nhân Covid-19 hậu ICU nghiêm trọng không kém so với các bệnh nguy kịch khác. Tiến sĩ Wade kể lại trong đợt bùng phát vừa qua, khu ICU tại bệnh viện của bà tiếp nhận hơn 100 bệnh nhân cùng một lúc. Trước đại dịch, số bệnh nhân tại đây khoảng 35 người.
Covid-19 khiến hoàn cảnh của bệnh nhân tại ICU đáng sợ hơn nhiều. Họ không có người thân bên cạnh. Nhân viên y tế mặc đồ bảo hộ như người ngoài hành tinh, không có thời gian trò chuyện, nắm tay an ủi người bệnh như bình thường. Phòng bệnh thì đông nghẹt với tiếng ồn phát ra từ máy móc. Cơn mê sảng dường như kéo dài và sâu hơn bình thường, khiến bệnh nhân mất nhiều tuần để tỉnh táo trở lại.
Còn quá sớm để biết tác động tâm lý lâu dài của bệnh nhân Covid-19 hậu điều trị ICU nhưng một nghiên cứu năm 2020 đăng trên Thư viện Y khoa Quốc gia của Mỹ cho thấy khoảng 28% những người trải qua ICU bị rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD), 31% bị trầm cảm và 42% mắc chứng lo lắng sau khi xuất viện.
Dù vậy, hàng nghìn người khác vẫn phục hồi tốt. Họ cảm thấy may mắn khi được cứu sống. Nhiều người thấy như được tái sinh và háo hức để bắt đầu cuộc sống mới.
Một bệnh nhân của của tiến sĩ Wade kể về niềm vui khi khám phá các môn nghệ thuật, niềm hứng khởi khi tự tay trang trí căn hộ và hô biến trang phục cũ thành đồ mới. Người này cũng lấy âm nhạc làm cứu cánh vượt qua đại dịch.
Nhà báo David Aaronovitch là một trong những bệnh nhân hỗ trợ nhóm của tiến sĩ Wade nhằm cải thiện chăm sóc tâm lý tại ICU. "5 ngày mê sảng là quãng thời gian tệ nhất đời tôi. Nhiều bệnh nhân ở ICU phải sống trong sợ hãi. Nếu có thể làm được điều gì cho họ, chúng ta phải thực hiện bằng được", Aaronovitch chia sẻ.
Các đơn vị chăm sóc tích cực đang cố giải quyết vấn đề này. Khi tiến sĩ Wade mới vào nghề cách đây 10 năm, số người tư vấn tâm lý cho các bệnh nhân vừa điều trị tại ICU không nhiều.
Cho tới nay, Anh có khoảng 80 chuyên gia tư vấn tâm lý. Họ là những thành viên quan trọng trong mạng lưới các chuyên gia phục hồi chức năng hậu ICU bao gồm các nhà vật lý trị liệu, chuyên gia dinh dưỡng, nhà trị liệu ngôn ngữ, giọng nói và nhiều lĩnh vực khác.
Sau khi các bác sĩ hoàn thành nhiệm vụ của mình, đội ngũ phục hồi chức năng giúp bệnh nhân sống tiếp cuộc đời họ mong muốn. Các tài liệu hướng dẫn y tế của Anh khuyến cáo việc phục hồi chức năng nên bắt đầu sớm từ khi bệnh nhân đang điều trị trong phòng ICU, tiếp tục trong suốt thời gian nằm viện và cả sau đó. Mọi đơn vị đều nên có đội ngũ bác sĩ tâm lý.
Khoảng một nửa số bệnh viện có ICU đã tổ chức các phòng khám để bệnh nhân đến kiểm tra lại. Nếu phát hiện vấn đề, bệnh nhân sẽ được chỉ định tìm đến các dịch vụ y tế, trung tâm phục hồi chức năng hoặc phòng khám chuyên về tâm lý.
Bên cạnh những tiến bộ, tại Anh, vẫn có đến 50% bệnh viện không có các dịch vụ chăm sóc cho bệnh nhân hậu ICU. Nhiều bệnh nhân phải vật lộn một mình để đối phó với các di chứng nặng nề sau khi xuất viện.
Theo lời kể của tiến sĩ Wade, trong một cuộc họp trực tuyến, nhiều người cho biết họ đã có khoảng thời gian khó khăn. Một vận động viên thể thao vẫn phải thở oxy và có sẹo ở phổi một năm sau khi mắc Covid-19. Một phụ nữ trẻ phải đối mặt với nhiều biến chứng và phẫu thuật. Vài người không rời khỏi nhà kể từ khi đại dịch bắt đầu vì sợ quay trở lại ICU. Một số vẫn đấu tranh để vượt qua những ký ức và ảo giác.
Những câu chuyện được chia sẻ giúp mọi người thấu hiểu và động viên nhau. Tiến sĩ Wade mong muốn những bệnh nhân đang trên đà phục hồi biết rằng họ không đơn độc. Luôn có sự giúp đỡ dành cho họ để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Mai Dung (Theo Guardian)