Đại biểu Đặng Ngọc Tùng cho rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường, tất cả chủ thể kinh doanh có quan hệ kinh tế, thương mại, có quyền bình đẳng ngang nhau và đều có thể bị lâm vào tình trạng phá sản. Hộ gia đình và cá nhân có đăng ký kinh doanh không phải là một ngoại lệ. Nếu không đưa hai đối tượng này vào trong phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản thì vấn đề đặt ra là khi các chủ thể đó lâm vào tình trạng phá sản, việc giải quyết sẽ được thực hiện theo luật nào, quyền lợi của chủ nợ, các chủ thể khác có liên quan sẽ được đảm bảo và giải quyết như thế nào? Do đó, theo ông Tùng, không thể vì khả năng quản lý của Nhà nước còn hạn chế mà bỏ một đối tượng ra khỏi sự điều chỉnh của pháp luật.
Đồng tình với ông Tùng, đại biểu Trương Văn Hiền và Nguyễn Thị Anh Nhân bổ sung là hiện nay các chủ tư nhân có doanh số kinh doanh, hoạt động vay vốn có thể lớn hơn nhiều doanh nghiệp Nhà nước, khi phá sản cũng gây ra nhiều rắc rối nên cần thiết phải bổ sung hộ gia đình, cá nhân có đăng ký kinh doanh vào đối tượng áp dụng của luật. Ngoài ra, trong khoản 2, điều 2 của dự luật, bà Nhân đề nghị chỉ nên ghi: Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng luật này đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ công ích thiết yếu, và bỏ phần doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Đại biểu này lập luận, các ngân hàng, bảo hiểm thực chất cũng là kinh doanh tiền tệ - một loại hàng hóa. Vì vậy không cần thiết để Chính phủ quy định cụ thể mà nên để Luật điều chỉnh.
Theo điều 3 của dự án luật thì doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản. Nhiều đại biểu đã không đồng tình với cách xác định tiêu chí này. Đại biểu Nguyễn Thị Hồng Khanh cho rằng khi xác định tình trạng của một doanh nghiệp, hợp tác không có khả năng thanh toán nợ đến hạn thì bản thân nó đã thể hiện được tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã rồi, không cần tới khi các chủ nợ có yêu cầu. Việc các chủ nợ yêu cầu hay không còn phụ thuộc vào thời điểm họ phát hiện hoặc phát sinh yêu cầu. "Việc phát hiện doanh nghiệp phá sản càng sớm càng tốt vì sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện để phục hồi kinh doanh hoặc nộp đơn phá sản nếu thấy cần thiết nhằm giảm bớt thiệt hại. Đây là điều chúng ta nên khuyến khích chứ không nên để đến khi chủ nợ phát hiện, có yêu cầu thì quá chậm và thiệt hại cũng nhiều hơn", bà Khanh nói.
Đại biểu Khanh tiếp tục lập luận về việc cần làm rõ tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Theo bà, một doanh nghiệp, hợp tác xã có nhiều chủ nợ và thời điểm đến hạn của các khoản nợ không giống nhau. Vì vậy có thể vào thời điểm nào đó, doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán một số khoản nợ, nhưng xét trong cả quá trình và tính bền vững của hoạt động sản xuất kinh doanh thì có thể doanh nghiệp, hợp tác xã chưa rơi vào tình trạng phá sản, trừ khi họ đang ở trong tình trạng thua lỗ kéo dài. Từ những lý lẽ đó, bà Khanh đề nghị bổ sung một tiêu chí để xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp, hợp tác xã và bỏ đi phần yêu cầu của các chủ nợ ở điều 3.
Theo các điều từ 13 đến 18 của dự luật, đối tượng được quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ, đại diện người lao động, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chủ sở hữu của doanh nghiệp, các cổ đông của công ty cổ phần và thành viên hợp doanh. Đại biểu Trương Hữu Chí cho rằng việc quy định đại diện người lao động được quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp không trả được lương chỉ mang tính hình thức, không có khả năng thực thi. Bởi lao động không nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp, hơn nữa tỷ lệ lương chiếm chưa tới 10% tổng số vốn của doanh nghiệp.
Cũng như trong kỳ họp của thường vụ Quốc hội vào tháng 4, điều 94 của dự luật về cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyến bố phá sản lại một lần nữa gây tranh cãi. Đại biểu Trương Hữu Chí cho rằng, hiện nay tồn tại quan niệm phá sản là xấu xa, thực tế không phải vậy. Ở các nước phát triển, một nền kinh tế lành mạnh thì số doanh nghiệp bị phá sản tương đương với số mới thành lập. Trong khi đó ở Việt Nam có trên một vạn doanh nghiệp, số bị tuyên bố phá sản vẫn ít, đây là dấu hiệu không bình thường.
Với quan điểm này, ông Chí cho rằng cần cởi mở hơn, không nên quy định cứng nhắc về việc cấm đảm nhiệm chức vụ giám đốc, tổng giám đốc, chủ tịch và các thành viên hội đồng quản trị... sau khi doanh nghiệp bị phá sản. Bởi doanh nghiệp phá sản là cả một quá trình, liên quan đến nhiều đời giám đốc, do đó việc xác định trách nhiệm cũng như hạn chế quyền lãnh đạo kinh doanh của họ cần cân nhắc kỹ. Mặt khác, ở các công ty cổ phần của Việt Nam, thành viên hội đồng quản trị gần như không có thực quyền. "Tôi từng là thành viên của một công ty cổ phần trong 3 năm, được tham gia họp 3 lần, không có quyền tham gia ý kiến chứ chưa nói tới quyền quyết định. Vậy bây giờ giả sử công ty đó bị phá sản và tôi sẽ bị cấm đảm đương chức vụ đó là không thỏa đáng", ông Chí nói.
Dự án Luật phá sản sẽ tiếp tục được hoàn chỉnh và được Quốc hội biểu quyết thông qua vào sáng 26/5. Ngày mai, Quốc hội thảo luận về dự án Luật thanh tra và dự án Luật giao thông đường thủy nội địa.
Như Trang