Ngày 14/7, đại diện Bộ Giao thông Vận tải cho hay, trong văn bản góp ý quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Nội Bài giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 tuần trước, UBND TP Hà Nội tiếp tục kiến nghị quy hoạch sân bay thứ hai vùng thủ đô đặt tại huyện Ứng Hòa.
Dự báo dân số Hà Nội tăng lên 10 triệu đến năm 2050, việc tập trung hành khách vào sân bay Nội Bài sẽ làm tăng lưu lượng qua các đường vành đai, trong khi thành phố còn quỹ đất ở phía nam. Do vậy, UBND Hà Nội đề nghị Bộ Giao thông Vận tải xem xét công suất cảng hàng không thủ đô đạt khoảng 130-150 triệu hành khách mỗi năm, đến 2050.
Hà Nội cũng đề xuất 2 phương án để đạt công suất này. Phương án thứ nhất, quy hoạch phát triển sân bay Nội Bài với quy mô khoảng 65 triệu hành khách/năm, đồng thời quy hoạch sân bay thứ hai tại khu vực phía nam thành phố với công suất 65 triệu hành khách/năm.
Phương án thứ hai Bộ Giao thông Vận tải xác định quy hoạch nâng công suất sân bay Nội Bài lên 100 triệu hành khách/năm, Hà Nội vẫn đề nghị nghiên cứu quy hoạch sân bay thứ hai với công suất đạt 50 triệu hành khách đến năm 2050 để địa phương có cơ sở chuẩn bị quỹ đất xây dựng.
Đây là lần thứ hai Hà Nội đề xuất quy hoạch sân bay tại huyện Ứng Hòa vì đảm bảo khoảng cách giữa Nội Bài phía bắc và sân bay thứ hai phía nam là 54 km, cách sân bay Miếu Môn, khu vực trường bắn Miếu Môn ở phía tây bắc khoảng 20 km, cách các dãy núi đá Trung Sơn, Vĩnh An phía tây khoảng 14 km.
Sân bay tại Ứng Hòa thuận lợi về kết nối giao thông đường bộ (cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ, cao tốc phía đông, đường vành đai 5 vùng thủ đô, quốc lộ 5, quốc lộ 7A), đường sắt Thống Nhất và tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường thủy (sông Hồng và cảng Phú Xuyên - Vạn Điểm). Việc giải phóng mặt bằng tại đây cũng thuận lợi vì khoảng 1.300 ha chủ yếu là đất nông nghiệp, diện tích giải phóng mặt bằng tại khu dân cư thấp.
Đại diện Bộ Giao thông Vận tải cho biết đã giao các đơn vị tư vấn đánh giá tổng thể ưu, nhược điểm của các kịch bản quy hoạch sân bay Nội Bài cùng phương án nghiên cứu vị trí sân bay thứ hai vùng Thủ đô, từ đó xác định quy hoạch sân bay Nội Bài giai đoạn đến năm 2030 đáp ứng quy mô 60-65 triệu hành khách/năm; giai đoạn đến năm 2050 là 100 triệu hành khách/năm.
Vị trí quy hoạch sân bay phải đáp ứng các điều kiện tự nhiên, vùng đất, vùng trời, điều hành bay; về tổ chức, quản lý, khai thác; diện tích đất, giao thông kết nối... Trên cơ sở phân tích, các đơn vị đánh giá vị trí huyện Ứng Hòa khó khả thi trong việc bố trí sân bay mới vì không đáp ứng các tiêu chí trên. Các vị trí tiềm năng khác tại Thanh Miện (Hải Dương), Tiên Lãng (Hải Phòng) có tính khả thi cao hơn.
Về thời điểm nghiên cứu sân bay thứ hai vùng thủ đô, Bộ Giao thông Vận tải đề nghị sẽ xác định vị trí sân bay này sau năm 2040.
Từ góc nhìn chuyên gia, TS Nguyễn Bách Tùng ủng hộ Hà Nội quy hoạch xây dựng sân bay thứ hai bởi xu hướng các thành phố lớn có 10-15 triệu dân cần hai sân bay quốc tế. Tuy nhiên, huyện Ứng Hòa đất thấp, trước đây là vùng xả lũ, chưa phù hợp để xây dựng sân bay. Tĩnh không khu vực này là đường xuống của máy bay đến Nội Bài nên có thể ảnh hưởng hoạt động của cả hai sân bay sau này.
Các sân bay quân sự hiện có tại Hà Nội, theo ông Tùng, cũng chưa đủ điều kiện để mở rộng. Sân bay Hòa Lạc không đủ diện tích đất mở rộng, sân bay Miếu Môn có diện tích lớn song gần núi đá vôi, nhiều mây mù, không thích hợp cho bay dân dụng với tần suất lớn.
Ông Tùng từng đề xuất nghiên cứu địa điểm tại huyện Thanh Miện và Bình Giang (tỉnh Hải Dương), cách Hà Nội 45-50 km hoặc huyện Tiên Lãng (TP Hải Phòng), cách 120 km bởi địa hình cao, kết nối giao thông tốt với thủ đô bằng cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, không có trở ngại về không lưu với đường bay hiện tại.
Theo Báo cáo cuối kỳ quy hoạch sân bay Nội Bài giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong giai đoạn đến năm 2030, sân bay Nội Bài công suất khoảng 65 triệu hành khách/năm; 2 triệu tấn hàng hóa/năm. Sân bay sẽ có 3 đường cất hạ cánh, gồm 2 đường hiện có và xây dựng mới một đường ở phía nam với 3 nhà ga hành khách (2 nhà ga T1, T2 hiện có và xây dựng mới một nhà ga) và 2 khu ga hàng hóa.
Đến năm 2050, sân bay đạt công suất 100 triệu hành khách/năm; 5 triệu tấn hàng hóa/năm. Sân bay lúc này có 4 đường cất hạ cánh và 4 nhà ga hành khách (2 đường cất hạ cánh và 2 nhà ga T1, T2 hiện có ở phía bắc, xây dựng mới 2 đường cất hạ cánh, 2 nhà ga hành khách ở khu vực phía nam) và 3 khu ga hàng hóa.