Sách ghi chép chi tiết về hoàng thành Thăng Long năm 1884: "Đó là một khoảng đất bằng, hình chữ nhật, cạnh dài nhất gần năm cây số. Khoảng đất này được bao quanh mọi phía bởi một tường lũy cao và dày xây bằng gạch. Tường lũy được bọc thêm ở phía ngoài bằng một con hào sâu ngập trong nước tù đọng".
Hocquard mô tả thành Thăng Long được trổ sáu cổng hoành tráng, mỗi cổng lại dẫn ra phía ngoài bằng một cầu gạch bắc qua con hào. Đặt trên mỗi cổng là một chòi canh nhỏ có mái che, lối lên chòi là bậc thang bố trí phía trong tường thành. Trong chòi canh có lính được giao nhiệm vụ gác cổng.
Qua ghi chép, độc giả hình dung quy mô điện Kính Thiên, công trình sau đó bị người Pháp phá hủy: Điện Kính Thiên đồ sộ, chiều dài lớn hơn chiều rộng, được xây trên một mảnh đất vuông vức, bốn mặt có tường bảo vệ kiên cố. Một bậc thềm lớn dẫn lên sân, giới hạn mỗi bên của bậc thềm là lan can bằng đá granite chạm trổ tinh xảo những khối hình cuộn mà người An Nam cho là mây. Bậc thềm chia làm ba lối, một lối trung tâm và hai lối hai bên, bằng hai con rồng dài ít nhất hai mét và mỗi con được chạm trổ từ một khối đá granite xám duy nhất...
Cột cờ Hà Nội trước trung tâm hoàng thành được bác sĩ mô tả là một khối lập phương bề thế, bên trên vươn lên tòa tháp cũng được xây bằng gạch cao chừng sáu hoặc bảy mét. Tháp này có sáu mặt, phía trong bố trí cầu thang hình xoắn ốc đón ánh sáng qua các ô cửa nhỏ trổ ra ở những độ cao khác nhau. Cầu thang dẫn tới một bề mặt nằm trên đỉnh tháp và từ đó có thể bao quát miền quê phụ cận.
Về phố phường, ông nhận định người Trung Quốc ở những khu phố đẹp nhất của Hà Nội, quản lý những cửa hàng quan trọng và phong phú nhất. Còn các khu phố người Việt, Hocquard nhận xét: "Các khu phố ở Hà Nội hoàn toàn chia cách với nhau bởi những cánh cổng lớn choán cả chiều rộng phố và đêm đến thì đóng lại".
Tác giả cũng viết về kinh thành Huế đầu năm 1886, một năm sau cuộc khởi nghĩa của vua Hàm Nghi chống thực dân Pháp. Ông mô tả chi tiết kinh thành vừa trải qua sự biến: "Cổng thành được canh giữ bởi lính Pháp. Bao quanh thành là tường lũy cao bằng gạch với rất nhiều súng đại bác bằng đồng hoặc gang bảo vệ, mỗi một cỗ đại bác được đặt dưới một mái hiên lợp ngói để che nắng che mưa". Sau sự kiện này, tướng De Courcy của Pháp đưa vua Đồng Khánh lên ngôi thay thế Hàm Nghi.
Ghi chép của bác sĩ bác bỏ việc quân Pháp chiếm được kho vàng của triều đình Huế, mà cho rằng "khi lính zouave xông vào kho bạc, họ không thấy một đĩnh vàng nào, chỉ còn lại đúng một thỏi bạc và một lô mề đay". Ông giải thích vua Hàm Nghi đã kịp di chuyển kho tàng ra Quảng Trị và sau đó, người Pháp đã tìm thấy ba mươi rương bạc nén ở tỉnh này, với giá trị lên tới bốn triệu franc.
Trong thời gian ở Huế, bác sĩ Hocquard được tướng Prudhomme - chỉ huy quân đội Pháp tại Trung kỳ - cho phép vào cung điện của vua Đồng Khánh. Ông lưu lại nhiều bức ảnh, từ chân dung nhà vua trên ngai vàng, đọc sách ở hậu cung đến chân dung bà phi của vua, các đoàn rước lễ, ngoại thất điện Càn Thành, Hiển Lâm các, nội thất điện Thái Hòa, lăng các vua nhà Nguyễn... Các bức ảnh này cùng trên 220 bức ảnh khác chụp cuộc sống, nét sinh hoạt người dân, phong cảnh từ miền Bắc vào miền Trung, trở thành tư liệu quý để tìm hiểu lịch sử Việt Nam.
Hơn 40% trong hàng trăm bức ảnh của sách khắc họa con người: những nhạc công, cô bán hàng chợ, người bán thịt rong, thợ khảm, thợ cạo, thợ cày, cô bán than, ông lão mù, phu phen, người nông dân xay lúa, thợ gốm, thợ rèn, tổng đốc, sứ thần, đốc học, trưởng làng, sĩ quan Pháp, tù nhân, thổ phỉ... Bên cạnh đó là những bức ảnh và mô tả về đời sống lao động, chân dung cá nhân... Hocquard dành một phần không nhỏ cho các nghi thức tôn giáo và tập tục (đám ma, thờ cúng tổ tiên...), giải trí (trò chơi, âm nhạc...).
Charles-Édouard Hocquard (1853-1911) là bác sĩ quân y trong quân đội Pháp tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam, có mặt tại Việt Nam từ tháng 2/1884 đến tháng 4/1886, ở Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Hóa sau đó đi dọc miền Trung vào Huế, Đà Nẵng. Ông còn là nhà nhiếp ảnh, đam mê viết lách và thích phiêu lưu. Tham gia chiến dịch quân sự nhưng không trực tiếp tham chiến. Vì vậy, ông chỉ điểm sơ chứ không đi sâu vào các chiến dịch quân sự. Sau chuyến đi, ông viết ký sự hành trình, đăng liên tiếp trên tạp chí Le Tour du Monde (Vòng quanh thế giới) với nhan đề Trente Mois au Tonkin (Ba mươi tháng ở Bắc kỳ), từ năm 1889 đến năm 1891.
Năm 1892, tác giả sửa tên ký sự thành Un campagne au Tonkin (Một chiến dịch ở Bắc kỳ) và được nhà xuất bản Hatchette (Paris) in, trong đó có 229 tranh khắc (khắc lại từ ảnh chụp), bản đồ về Việt Nam. Sách do Thanh Thư dịch, dày 605 trang, đầy đủ ảnh minh họa, Nhà xuất bản Đà Nẵng và Omega Plus ra mắt đầu tháng 5.
Ngoài ra, đầu tháng 5, Đông A Books cũng ra mắt bản Một chiến dịch ở Bắc Kỳ. Ấn bản là tác phẩm đầu tiên trong Tủ sách Đông Dương của đơn vị này, người dịch: Đinh Khắc Phách.
Tiên Long