Vì câu trả lời của Google luôn luôn ỡm ờ như đã nói ở trên từ nhiều năm nay, nên giới quan sát đã nhiều lần thực hiện nghiên cứu để tìm ra con số đích thực. Khảo sát gần đây tuyên bố hãng dịch vụ tìm kiếm có tới 100.000 server trong khi nhiều chuyên gia khác lại đưa ra con số: 1 máy chủ.
Người đứng đầu trong quan điểm “1 máy chủ” là Rich Skrenta, Giám đốc mạng tin Topix.net. Ông này cho rằng Google đã xây dựng nền điện toán với 1 server cực lớn; công nghệ search của Google hoạt động trong khuôn khổ một cơ sở hạ tầng tinh vi, rất nhanh và hiệu quả trong việc xử lý hàng núi dữ liệu thông qua sự kết nối của 100.000 đơn vị xử lý đơn lẻ kết hợp lại thành một khối thống nhất. Ủng hộ quan điểm của Skrenta, Tim O'Reilly, Giám đốc hãng O'Reilly Media (Mỹ), phát biểu: “Tôi luôn nghĩ rằng Internet là một hệ điều hành phi tập trung cực lớn. Google khiến tôi nhận ra rằng tất cả mọi thứ có thể chỉ cần dựa vào một đối tuợng máy chủ”.
Một chi tiết đáng chú ý trong hồ sơ cổ phần hóa của Google là họ đã chi khoảng 250 triệu USD vào thiết bị phần cứng. Dựa vào đây, một số người cho rằng có thể đoán ra cơ cấu hệ thống của hãng tìm kiếm với con số từ 45.000 đến 80.000 máy chủ. Những người này lập luận cụ thể như sau: mỗi tổ hợp (rack) gồm 88 máy với CPU kép có giá khoảng 278.000 USD. Nếu chia tổng số 250 triệu USD cho con số này thì sẽ có kết quả là xấp xỉ 899. Mà như trên đã nói, mỗi tổ hợp máy chủ này có 88 máy con thì tức là Google có 79.000 server. Tuy nhiên, cũng cần phải nhớ rằng số thiết bị này không hẳn chỉ là CPU. Do đó, phải trừ bớt trên tổng số 250 triệu USD chi phí của thiết bị định tuyến router, tường lửa, máy móc khác cho nhân viên…Vậy nếu tạm coi tổng số tiền cho CPU là 200 triệu USD thì còn lại 719 tổ hợp máy và kết quả sau khi chia ra sẽ là 63.000 máy chủ. Còn nếu giảm tổng số tiền cho CPU xuống còn 100 triệu USD thì kết quả cuối cùng sẽ là 31.654 máy chủ nằm trên 359 tổ hợp.
Nói đến vấn đề số máy chủ của Google, nhiều người còn liên hệ đến chuyện hãng dịch vụ tìm kiếm tuyên bố dự định triển khai hệ thống e-mail 1 GB miễn phí. Tại sao điều này lại quan trọng đối với tương lai kinh doanh của Google? Bởi vì sự thành công của hãng này phụ thuộc vào khả năng đứng vững trước những thách thức của các đối thủ cạnh tranh hàng đầu như Yahoo và Microsoft. Cả 2 công ty này đều có những thế mạnh riêng mà Google không thể dễ dàng bắt kịp. Yahoo thì có sẵn một nền tảng là số khách hàng đăng ký cực đông. Điều này cho phép họ cung cấp những kết quả tìm kiếm có tính chất cá nhân hóa. Trong khi đó, Microsoft đang nỗ lực tung ra những sản phẩm và ứng dụng để bàn nhằm biến mỗi máy tính của khách hàng thành một công cụ điện toán của họ. Bill Gates và các cộng sự đang hy vọng tích hợp tính năng tìm kiếm vào trong các thương hiệu phổ biến hiện nay của họ như Windows hay Office và đẩy bật Google ra khỏi “xới”.
Mặc dù 2 ông chủ của dịch vụ tìm kiếm khổng lồ chưa có bất cứ tuyên bố hay nhận xét nào về tình hình cạnh tranh với hai đại gia trên, những hành động của họ cho thấy một nỗ lực chiến lược trong việc đấu tranh khắc phục sự bất lợi về cơ cấu này: Đó là chuyển các hoạt động của người sử dụng từ máy tính do Microsoft thống lĩnh sang cỗ máy tìm kiếm khổng lồ thuộc “hành tinh Google”. Rõ ràng tuyên bố mới đây về việc phát triển dịch vụ thư điện tử của Google dường như không nằm ngoài ý tưởng này. Đó là dịch vụ e-mail có tên Gmail. Với khả năng dễ dàng xử lý những lượng thông tin khổng lồ, công ty tìm kiếm có thể cung cấp cho tất cả khách hàng của họ 1 GB không gian ảo để lưu hàng chục nghìn bức thư. Giống như những ứng dụng khác của Google, dịch vụ này sẽ được tung ra như một công cụ miễn phí để thu về những khoản lợi nhuận khác từ quảng cáo.
Quay trở lại vấn đề số máy chủ của Google, câu hỏi đặt ra là tại sao hãng dịch vụ tìm kiếm lại phải dè dặt và kín đáo đến như vậy trong việc công bố con số thực sự? Phải chăng họ quá “trách nhiệm”, không muốn thổi phồng tiềm năng của mình trước thềm cổ phần hóa? Hay đây là dấu hiệu của một chiến lược thương mại sâu hơn?
Vế thứ 2 nhận được nhiều lời lý giải hơn. Giới quan sát cho rằng nếu Google công khai tổng số trang web mà họ đưa vào hệ thống chỉ mục (index) và nói rõ họ có bao nhiêu máy tính tại các trung tâm dữ liệu của mình trên khắp thế giới thì những đối thủ lớn như Yahoo, hay thậm chí những đàn em như Teoma và Mooter sẽ biết được bản thân mình cần phải đầu tư thêm bao nhiêu vốn để phế truất ngôi “hoàng đế” của Google.
Nếu việc công khai thông tin sẽ là vết thương đầu tiên trong cuộc chiến ở thị trường dịch vụ tìm kiếm đối với Google thì việc cổ phần hóa - với những yêu cầu mở cửa và minh bạch hóa - sẽ chắc chắn đặt nhát cứa đầu tiên vào nỗ lực “mờ ảo hóa” con số server mà bấy lâu Google vẫn cố giữ.
Phan Khương