Tại hội thảo về quản trị nhân sự trong giáo dục ở Thái Lan năm 2010, tôi thấy đoàn Việt Nam có hơn chục người, đa phần là cán bộ chủ chốt thuộc bộ và các sở giáo dục tỉnh, thành. Đoàn Việt Nam tạo một ấn tượng rất đặc biệt trong hội thảo. Khi đại biểu từ các nước đều ngồi ở phía trên, hướng về phía báo cáo viên để nghe thì đoàn Việt Nam ngồi túm lại thành hai nhóm tách biệt phía cuối hội trường, chụm đầu vào nghe cô phiên dịch.
Tôi để ý thấy hai người trong đoàn có tiếng Anh khá tốt, còn lại hơn chục người phải dựa hoàn toàn vào phiên dịch. Đến lúc ông bộ trưởng Giáo dục Thái Lan đi bắt tay mọi người trong tiệc chiêu đãi, các cán bộ Việt Nam co cụm lại, trông đến khổ.
Nhớ lại hội thảo ấy, tôi hiểu vì sao Bộ Nội Vụ hạ quyết tâm thực hiện đề án "Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ các cấp". Theo như công bố, nếu đề án thành công, từ năm 2030, 40% đến 50% cán bộ cấp huyện, tỉnh, trung ương của hệ thống công vụ có đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; 15% đến 20% cán bộ công chức cấp xã có thể sử dụng thành thục ngoại ngữ. Đây sẽ là điều kiện tuyệt vời giúp Việt Nam tiệm cận và hòa nhập nhanh hơn với thế giới. Tuy nhiên, với kinh nghiệm của mình, tôi cho rằng chỉ bằng cách "bồi dưỡng nâng cao năng lực ngoại ngữ cho cán bộ" có lẽ không đủ.
Việc phổ cập ngoại ngữ cho cán bộ ở Việt Nam không đơn giản. Không phải bây giờ mà có lẽ đã vài thập kỷ trôi qua, nhiều cán bộ cắp cặp đi học tiếng nhưng giao tiếp bằng ngoại ngữ với những câu thông thường đã khó, nói gì tới giao tiếp và làm việc trong môi trường quốc tế.
Tôi có hai cậu em, như đa phần các cử nhân và kỹ sư ở Việt Nam, tốt nghiệp đại học với vốn tiếng Anh chỉ ở trình độ "xóa mù". Sau khi ra trường, cả hai đều bỏ tiền đi học thêm tiếng Anh để xin việc. A sau đó vào làm trong tòa án, T. đầu quân cho công ty nước ngoài về điện tử viễn thông. T bỏ ngang việc học tiếng Anh vì quá bận. A vẫn kiên trì đi học ngoại ngữ cho đến khi thi đỗ vào công chức, vẫn tự hào có vốn tiếng Anh đủ để thi đỗ, không cần nhờ vả xin xỏ gì.
Bẵng đi vài năm, A được bổ nhiệm lên chức, lại phải thi tiếng Anh, cậu tìm đến tôi than thở, nhờ bổ túc lại vài câu giao tiếp để trí trá lúc kiểm tra nói. "Học bao nhiêu quên hết rồi chị ơi, giờ thì bổ túc tí nào được tí ấy, mà công việc bận thế này, chắc học cũng chẳng vào đầu được, phải nhờ vả hết thôi chị", cậu bảo. Trong khi đó, tôi thấy T nói chuyện bằng tiếng Anh khá tự nhiên với đối tác.
Tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường sử dụng ngôn ngữ trong việc học và duy trì ngoại ngữ đã học. Ngoại ngữ có thuộc tính dễ quên. Nếu không có môi trường tiếng, không có động lực nội tại, nếu việc học chỉ mang tính chất nhỏ giọt vài ba tiếng một tuần hoặc bị ngắt quãng, lâu lâu tham gia các lớp bồi dưỡng thì có học mãi cũng không đem lại kết quả gì cho những người lớn tuổi vừa học vừa làm. Đọc dự thảo đề án của Bộ Nội vụ, tôi băn khoăn: có bao nhiêu cán bộ cấp xã, cấp huyện, thậm chí cấp tỉnh ở Việt Nam có điều kiện sử dụng ngoại ngữ ngoài lớp học?
Và nếu đề án được thực thi, bao nhiêu công sức và tiền của sẽ phải đổ ra để đem về kết quả có cũng như không ấy? Có những người có thể nỗ lực, có thể thi và đạt "chuẩn", nhưng giữ chuẩn thì chưa ai bàn tới bao giờ. Câu hỏi đặt ra là: nếu môi trường tiếng chưa được như mong muốn, liệu cán bộ công chức các cấp có cần biết ngoại ngữ không? Câu trả lời là có và không.
"Có" đối với những cán bộ mà công việc có yếu tố nước ngoài, làm việc trong môi trường có nhiều người nước ngoài sinh sống, du lịch hay đầu tư làm ăn như Hạ Long, Đà Nẵng, Bình Dương, Hà Nội hay TP HCM. Tuy nhiên, nếu họ chỉ làm công tác hành chính và tiếp dân ở các xã và huyện lỵ nhỏ, xa trung tâm và không có điều kiện tiếp xúc với người nước ngoài, yêu cầu tiếng Anh chỉ nên là thứ yếu.
Khi tôi còn ở Đức, dù người Đức rất giỏi tiếng Anh và tôi cũng biết tiếng Anh, nhưng trong các giấy tờ tôi nhận được, họ luôn khuyến nghị, nếu tôi không biết tiếng Đức, hãy đi cùng phiên dịch viên tới cơ quan di trú hoặc các cơ quan công quyền khác. Vốn tiếng Đức của tôi không tốt nên cứ nói chuyện về giấy tờ là tôi chuyển sang dùng tiếng Anh. Cán bộ người Đức đa phần họ nói lại với tôi bằng tiếng Anh nhưng cũng không ít lần yêu cầu tôi phải chuyển sang tiếng Đức vì tiếng Đức là ngôn ngữ chính thống trong giao dịch hành chính của họ.
Còn ở Nhật, nơi không phải cán bộ hành chính nào cũng nói được tiếng Anh, kể cả ở các thành phố lớn, người ta thường tuyển dụng một vài cán bộ biết tiếng Anh ở mỗi phòng ban. Những cán bộ này khi cần sẽ tiếp đón khách nước ngoài, tham gia các chuyến công tác và xử lý các tài liệu bằng ngoại ngữ.
Trong điều kiện hiện tại của Việt Nam, việc bồi dưỡng đại trà và buộc cán bộ kiểm tra ngoại ngữ theo chuẩn, dù chuẩn đó được đánh giá tốt tới mức nào, cũng chưa phù hợp. Việc đầu tiên nằm ở bộ phận phụ trách nhân sự các cấp. Hơn ai hết, họ biết những vị trí nào, những phòng ban nào cần người biết ngoại ngữ gì và làm thế nào để có thể tuyển dụng, bồi dưỡng hoặc thuyên chuyển người có khả năng thích hợp vào vị trí đó. Nếu nhỡ "tuyển nhầm", họ cũng có thể đánh giá nhân sự theo kết quả công việc thực tế và đưa ra điều chỉnh phù hợp.
Ngày nay, chúng ta cần có các cán bộ thạo ngoại ngữ không chỉ để xử lý văn bản tiếng nước ngoài và tiếp đón khách quốc tế. Họ còn có thể trở thành cầu nối hiệu quả giúp người dân và doanh nghiệp tiếp cận, ứng dụng và trải nghiệm những bài học hay, những kinh nghiệm quý từ nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, nó còn là uy tín và hình ảnh quốc gia tại các môi trường quốc tế.
Để các đề án tăng cường ngoại ngữ có kết quả thật, công tác bồi dưỡng có chọn lọc cần phải tiến hành song song với việc khuyến khích cán bộ sử dụng hay tạo môi trường phát triển ngoại ngữ cho họ. Khi ngoại ngữ thực sự có đất sống nơi công quyền, năng lực của hệ thống cũng từ đó mà cải thiện.
Trần Thị Tuyết