Tôi cũng là một phụ huynh có ba con nhỏ. Con đi học, tôi vì trách nhiệm và vì tò mò mà dành thời gian tìm hiểu chương trình, rồi học cùng con ở hai quốc gia khác nhau nữa. Vậy tính ra, tôi đã đi qua 5 nền giáo dục Á - Âu, cả trực tiếp và gián tiếp. Vậy tôi thấy gì khác nhau trong 5 nền giáo dục đó? Và quan trọng hơn, bài học nào sẽ được rút ra từ những trải nghiệm thực tế đó?
Tôi thấy rằng, dù khác nhau về văn hóa, thể chế và tôn giáo, nhưng giáo dục có hai loại mục tiêu: Đào tạo con người công cụ và đào tạo con người tự do. Hai mục tiêu này không tách bạch tuyệt đối, thường lồng ghép xen lẫn vào nhau theo chủ ý hoặc vô thức do tập tục. Tùy theo mức độ công cụ hay tự do nhiều hay ít, mà hệ thống giáo dục đó sẽ tạo ra con người công cụ hay con người tự do theo cách tương ứng.
Như mọi hệ thống sản xuất khác, một hệ thống chỉ có thể vận hành trơn tru hiệu quả và không rơi vào hỗn loại khi hình dung đích xác được sản phẩm đầu ra có những thuộc tính nào. Với giáo dục là trả lời tường minh cho câu hỏi: Hệ thống giáo dục hướng đến việc đào tạo con người nào?
Rất nhiều độc giả đã đặt ra câu hỏi tương tự sau các bài viết “Giáo dục không triết lý” và “Giáo dục bế tắc” trên Góc nhìn. Họ chấp nhận phản biện về cải cách hiện thời của tôi, nhưng đề nghị tôi trả lời rằng tôi mong muốn triết lý nào.
Sau nhiều năm trải nghiệm, tôi bắt đầu gây dựng và theo đuổi một triết lý giáo dục mới, phát biểu giản dị rằng: Con người tự do là đích đến của giáo dục.
Con người tự do, như tên gọi của nó, thể hiện trước hết ở việc tự do đi tìm câu trả lời cho câu hỏi cốt yếu “Tôi là ai?”. Đó chính là tự do tư tưởng. Tư tưởng về chính bản thân mình. Con người khác với con vật ở chỗ biết hỏi: “Người là gì, tức Tôi là ai?”, còn con vật thì không. Chính việc tự do đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này là cội nguồn của văn minh nhân loại, hình thành nên nhân tính và xã hội con người. Mà muốn vậy, điều kiện tiên quyết là họ phải có được tự do để tư duy trước khi trả lời cho câu hỏi tôi là ai. Mà để tư duy hiệu quả và chính xác, họ cần thông tin như những nguyên liệu đầu vào. Vì vậy, sự tự do tiếp cận thông tin là điều tối quan trọng. Trong giáo dục, điều này có nghĩa, học sinh và giáo viên phải được quyền tiếp cận với các nguồn tư liệu và tài liệu tham khảo khác nhau, thể hiện trước hết ở nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau được lưu hành.
Trong lớp học, học sinh phải được tự do bày tỏ ý kiến và diễn giải của mình. Nội dung bài học vì thế không được phép đóng cứng vào một diễn giải cụ thể, dù đó là diễn giải của người thầy đáng kính. Nếu không, học sinh sẽ bị thui chột sáng tạo và trở nên máy móc. Việc học rõ ràng không phải chỉ là ghi nhớ giải pháp của thầy cô, mà là tìm được bao nhiêu giải pháp theo cách của riêng mình cho vấn đề đang đối mặt.
Việc thi cử khi đó cũng không đi theo hướng có học thuộc, biết đúng điều đã được dạy để thi hay không, mà trở thành thước đo cho sự trưởng thành của người học, mà quan trọng nhất là sự trưởng thành trong tư duy của họ, biểu hiện qua năng lực cốt yếu: Năng lực tư duy độc lập.
Vì sao như vậy, vì nếu không có năng lực tư duy độc lập, một người dù đã bạc đầu, vẫn cần phải cậy nhờ đến tư duy của kẻ khác, do đó trên thực tế vẫn là trẻ vị thành niên. Đất nước không cần nhiều trẻ vị thành niên bạc đầu như vậy. Đất nước cần những con người trưởng thành, có tư duy độc lập, để xây dựng một đất nước độc lập và trưởng thành.
Tầng thứ hai của con người tự do là tự do lựa chọn. Lựa chọn là cấp độ cơ bản nhất của hành động. Nhìn thật kỹ chúng ta sẽ thấy mọi hành động có nghĩa đều bắt đầu bằng một lựa chọn.
Vì sao? Vì sau khi đã có tự do tư duy, đã có thể tư duy độc lập, thì ta phải làm điều gì đó chứ? Nếu giáo dục chỉ đào tạo ra những thế hệ học nhiều thi giỏi mà không biết làm việc, không có khả năng lựa chọn thì rõ ràng nền giáo dục đó đã sai đường. Với giáo dục, tự do lựa chọn thể hiện trước hết trong việc được quyền lựa chọn hình thức học tập phù hợp với mình. Vì thế, bên cạnh những loại hình trường hiện có, loại hình homeschooling, tức học tại nhà, cần được thừa nhận về mặt pháp lý.
Quyền tự do lựa chọn còn thể hiện ở việc người học cần được quyền lựa chọn giáo viên phù hợp. Vì thế hệ thống giáo dục cần phải tổ chức sao cho lựa chọn này thực hiện được, ví dụ bỏ biên chế suốt đời. Không thể nào một giáo viên kém, nhưng vì lý do nào đó, vào được hệ thống giáo dục, thì nghiễm nhiêm ở đó gần 40 năm cho đến lúc về hưu mà không có cách nào để thay thế.
Một người có tự do lựa chọn là một người đã có khả năng lãnh đạo bản thân, làm chủ cuộc đời mình, và tự chịu trách nhiệm về sự làm chủ đó. Đó chính là những phẩm chất mà một người học cần hướng tới. Lãnh đạo bản thân, làm chủ cuộc đời mình là thước đo cho sự trưởng thành thực sự cho người học.
Tầng thứ ba của con người tự do sẽ là tự do trở thành, tức được tự do trong việc quyết định trở thành người mình chọn để trở thành. Nó bao gồm tự do thân thể, tự do biểu đạt cảm xúc, tự do biểu lộ tinh thần. Sự thay đổi của chúng chính là sự thay đổi của chúng ta. Người học phải nhận biết và làm chủ được những sự thay đổi đó, thông qua lựa chọn trong tự do và sau khi suy xét.
Cho đến nay, tự do thân thể đã được pháp luật bảo hộ, nhưng nhiều khi còn mâu thuẫn khi triển khai. Quyền tự do thân thể chưa được nhận thức đúng. Bạo hành trong gia đình và nhà trường, một sự xâm phạm tự do thân thể điển hình, vẫn xảy ra thường xuyên. Bạo lực học đường bùng phát cũng là chỉ dấu xấu cho thấy tự do thân thể đã bị xâm phạm ngay trong môi trường trong sáng nhất là nhà trường.
Còn tự do biểu đạt, dù là cảm xúc hay tinh thần, gần như ít khi được xét đến. Một phần do văn hóa truyền thống, một phần do giáo dục đã bỏ qua thứ tự do trở thành này, nên con người không được sống thật với cảm xúc và các giá trị tinh thần của mình, lại càng không dám biểu đạt chúng ra cho người khác thấy. Tất cả những điều này đều không tốt cho sức khỏe tâm thần, cho sức sáng tạo, và rộng hơn là cho một xã hội lành mạnh.
Có rất nhiều dấu hiệu cho thấy “tự do” chưa phải là một khái niệm được tôn trọng trong nhà trường, hay không phải là mục đích của nó.
Tầng thứ tư của con người tự do là tự do kiến tạo, có được trên nền móng từ ba thứ tự do đã nói ở trên. Một người chỉ có thể kiến tạo tương lai nếu tương lai đó đã được kiến tạo trong tâm trí mình trước hết. Tương lai của một con người, tương lai của một quốc gia, nằm ở thứ tự do kiến tạo này.
Đó là lý do vì sao tôi luôn tâm niệm rằng, triết lý giáo dục của thời đại mới không thể là đào tạo con người công cụ như hệ thống giáo dục hiện thời. Con người tự do là đích đến của giáo dục.
Giáp Văn Dương