Nhắc đến Nguyễn Khuyến, người đời thường nhắc tới chùm thơ thu với ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Đây là những bài thơ tiêu biểu nhất cho thơ Nôm Nguyễn Khuyến.
Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc ánh trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Thu ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ, màu khói nhạt
Làn ao long lánh bóng trăng loe
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Thu điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Ngoài ba bài thơ thu kể trên, Nguyễn Khuyến còn để lại rất nhiều tác phẩm. Tập thơ Quế Sơn thi tập của ông gồm khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với nhiều thể loại. Nguyễn Khuyến viết về con người, cảnh vật và cuộc sống quê hương; chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỷ, cơ hội thời bấy giờ...
Câu 5: Nguyễn Khuyến mất năm 1909. Trước khi mất, ông đã viết di chúc nhờ khắc lên bia rằng "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu". Điều này đúng không?