Đêm 14/4/1865, tại nhà hát Ford ở Washington, tổng thống Abraham Lincoln bị diễn viên John Wilkes Booth bắn chết khi đang xem một vở kịch. Vụ ám sát diễn ra vào cuối cuộc Nội chiến Mỹ giữa Liên bang miền Bắc với Liên minh miền Nam. Sau khi Lincoln đắc cử tổng thống năm 1860, 11 bang theo chế độ nô lệ ở miền nam Mỹ tuyên bố ly khai và lập ra Liên minh miền Nam. 25 bang còn lại ủng hộ chính phủ được gọi là Liên bang miền Bắc.
Hung thủ Booth và một số người khác ủng hộ Liên minh miền Nam muốn sát hại ba quan chức quan trọng nhất của Liên bang miền Bắc, gồm tổng thống Lincoln, phó tổng thống Andrew Johnson và ngoại trưởng William H. Seward. Seward đã bị thương nặng vì một cuộc tấn công còn những kẻ âm mưu ám sát Johnson cuối cùng không tiến hành kế hoạch. Nội chiến Mỹ kết thúc vào tháng 5/1865 khi Liên bang miền Bắc chiến thắng.
Ward Hill Lamon, người bạn và vệ sĩ của Lincoln, vắng mặt trong đêm tổng thống bị ám sát. Nhưng Lamon kể lại rằng ông là "hai hay ba người có mặt" khi tổng thống thứ 16 của Mỹ kể lại giấc mơ đáng lo ngại chỉ vài ngày trước thời điểm bị ám sát.
Theo đó, tổng thống Lincoln gặp giấc mơ đặc biệt khoảng 10 ngày trước cuộc nói chuyện với nhóm người. Vừa chìm vào giấc ngủ, ông nghe thấy "những âm thanh giống như tiếng nức nở nho nhỏ". Lincoln đi xuống cầu thang để tìm hiểu xem chúng phát ra từ đâu nhưng không bắt gặp bắt cứ ai cho tới khi bước chân đến Phòng Đông, Nhà Trắng. Lúc này, ông mới phát hiện ra "điều bất ngờ kinh hoàng": Một xác chết bị che phủ nằm trên thảm, vây xung quanh là binh lính và những người đang khóc thương.
"Ai chết ở Nhà Trắng vậy", ông hỏi một lính gác. Câu trả lời khiến Lincoln choáng váng: "Tổng thống, ngài ấy đã bị ám sát".
Lincoln nói rằng ông đã thức dậy ngay lập tức vì "tiếng khóc thương quá lớn của đám đông" và không thể ngủ trở lại. Kể từ đó, tổng thống luôn cảm thấy khó chịu một cách kỳ lạ, theo lời kể của Lamon.
Tuy nhiên, Lincoln nói thêm với Lamon rằng "trong giấc mơ này, không phải tôi, mà là một người khác, đã bị giết. Có vẻ như sát thủ đã ra tay với người khác".
Một số nhà sử học bày tỏ hoài nghi về lời kể của Lamon, được xuất bản lần đầu vào những năm 1880, gần 20 năm sau vụ ám sát. Điều khiến họ thắc mắc nhất là nếu thực sự được nghe kể, tại sao Lamon và đệ nhất phu nhân Mary Lincoln, người được cho là cũng có mặt lúc tổng thống Lincoln tường thuật lại giấc mơ, lại không đề cập tới nó ngay sau khi ông bị ám sát.
Don Edward Fehrenbacher, nhà sử học từng đoạt giải Pulitzer, cũng bày tỏ hoài nghi về lời kể của Lamon. Tuy nhiên, ông lưu ý rằng nhiều tác giả danh tiếng đã coi lời kể của Lamon là sự thật. Joe Nickell, người chuyên điều tra các sự kiện kỳ bí, cho rằng việc ông Lincoln nằm mơ như vậy không phải điều lạ vì tổng thống đã là mục tiêu của một số vụ ám sát hụt trước đó.
Lincoln vốn là người rất quan tâm đến ý nghĩa của những giấc mơ và những gì chúng báo hiệu về tương lai, cả tích cực lẫn tiêu cực. Ông từng gửi một bức thư cho vợ vào năm 1863 khi bà lúc đó ở Philadelphia cùng với cậu con trai 10 tuổi của họ, Tad. Lincoln viết rằng Mary tốt hơn nên "cất khẩu súng lục của Tad đi" vì ông "có một giấc mơ rất tệ về nó".
Các thành viên trong nội các của Lincoln cũng kể lại rằng vào buổi sáng ngày ông bị ám sát, tổng thống đã nói với họ ông mơ thấy mình chèo thuyền rất nhanh qua một vùng nước tối vô định. "Tôi từng mơ thấy giấc mộng này nhiều lần trong quá khứ, trước gần như mọi sự kiện lớn của cuộc chiến", Lincoln nói.
Vũ Hoàng (Theo History)