Tuổi thơ mặc cảm vì khiếm khuyết cơ thể
Bùi Quang Long sinh năm 1993, lớn lên ở Đồng Nai, từ lúc mới lọt lòng đã bị chẩn đoán chảy máu trong và rối loạn thần kinh thực vật. Suốt ba tháng đầu, thể trạng cậu yếu ớt, thường quấy khóc cả ngày đêm. Tuổi thơ cậu gắn liền với bệnh viện, thân nhiệt lúc nào cũng 38-39 độ và những cơn sốt liên miên.
Đến tháng thứ bảy, thứ tám, trong khi những đứa trẻ khác đã mọc răng thì bác sĩ nói Long không có răng sữa cũng như răng vĩnh viễn. Năm Long một tuổi, cậu bé gầy yếu chỉ mọc một chiếc răng duy nhất nằm sâu bên trong hàm dưới. Đến năm 10 tuổi, chiếc răng này bị hư, phải nhổ đi.
Trong khi bạn bè thoải mái ăn ngon, cười đùa, Long lại thu mình trong “vỏ ốc” và mơ ước có cảm giác ngon miệng khi ăn, muốn tránh xa những lời trêu chọc ác ý vì không răng bẩm sinh. Tiếng khóc thầm của mẹ hàng đêm cùng sự lo lắng của cha khiến Long hiểu mình không được bình thường như bao người.
Mong muốn con khỏe mạnh, có thể ăn ngủ thoải mái và tự tin trong cuộc sống, gia đình chạy vạy khắp nơi để đưa con đến khám tại các bệnh viện lớn ở TP HCM. Sau quá trình thăm khám, chụp X-quang, bác sĩ kết luận cậu không có mầm răng và khó khắc phục tình trạng này.
Vì không có răng bẩm sinh nên xương hàm Long bị teo đét, không phát triển. Ngoài ra, cậu còn có những biểu hiện như tóc mọc ít và thưa, da mỏng, không có lỗ chân lông và không có mồ hôi...
Vì thương con, gia đình Long tiếp tục hành trình xuôi Nam, ngược Bắc để tìm cách chữa trị. Cuối cùng, cậu được đeo hàm giả tháo lắp. Tuy nhiên, với một cậu bé đang tuổi lớn, việc này trở thành cơn ác mộng vì đau đớn. Đặc biệt, hàm giả chỉ có thể khắc phục tình trạng thẩm mỹ, khó có thể hỗ trợ chức năng ăn nhai, đồng thời gây khó chịu khi đeo.
“Từ bé, tôi đã mơ ước có hàm răng khỏe mạnh, đều đẹp như mọi người. Tuy nhiên, điều ấy không thể thành sự thật. Hàm giả ngày càng lỏng lẻo, ăn nhai rất đau. Tính từ năm 10 tuổi đến năm 21 tuổi, tôi đã thay 4 lần hàm giả nhưng vẫn không nhai được cũng như chưa bao giờ có cảm giác ngon miệng, đơn thuần chỉ là ăn cho no mà thôi”, Long kể lại.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Võ Văn Nhân - Giám đốc trung tâm Implant Nha khoa Nhân Tâm, đây là trường hợp đặc biệt vì không răng bẩm sinh là ca bệnh hiếm gặp với tỷ lệ 1/100.000 trẻ mới sinh ra mắc phải và cũng là một trong những dạng nghiêm trọng nhất của hội chứng loạn sản ngoại bì.
Giải pháp giúp chàng trai không răng bẩm sinh “ăn ngon, thoát xấu”
Sau hơn 20 năm bị ám ảnh khiếm khuyết ngoại hình và thiếu hụt răng. Cậu bé nhỏ nhắn năm nào đã trưởng thành, cao 1,75m, tuy nhiên thể trạng vẫn gầy gò, ốm yếu, cộng thêm diện mạo luôn thay đổi theo chiều hướng xấu. Bản tính nhút nhát, tự ti ăn sâu trong tiềm thức cậu. Vì thế, khi nghe ngóng, tìm hiểu bệnh của con mình có thể chữa trị, gia đình Long lại dắt díu nhau vào TP HCM với hy vọng con sẽ bình thường như bao người.
Sau khi thăm khám, bác sĩ chẩn đoán Long không có răng từ nhỏ nên xương hàm không phát triển, không có xương neo giữ hàm giả tháo lắp khiến việc ăn nhai khó khăn. "Bệnh nhân không có răng từ lúc mới sinh dẫn đến xương hàm không phát triển, nướu teo và mỏng. Đây là bất lợi lớn cho việc phục hồi răng do không có xương nâng đỡ và lưu giữ hàm giả, kể cả việc cấy ghép Implant thông thường cũng không thực hiện được vì xương hàm trên tiêu sát nền mũi và đáy xoang hàm, xương hàm dưới còn lại cực kì ít, chỉ cách dây thần kinh một vài mm”, ông Nhân nói thêm.
Tình trạng xương như vậy nếu ghép xương và cấy implant bình thường là không khả thi vì nguy cơ gặp nhiều biến chứng và quan trọng hơn là tỷ lệ thành công không cao.
Vì thế, Long được chỉ định tiến hành song song hai kỹ thuật phức tạp là dời thần kinh để trồng răng hàm dưới và cấy ghép Implant xương gò má để trồng răng hàm trên. Việc kết hợp song hành này là sự thách thức lớn với các chuyên gia. Bác sĩ phải giàu kinh nghiệm, am tường cấu trúc giải phẫu để có thể làm chủ hai kỹ thuật này, dự phòng cũng như kiểm soát biến chứng có thể xảy ra để xử lý kịp thời, đảm bảo an toàn và thành công cho bệnh nhân.
Tháng 10/2016 và 1/2017 Long được phẫu thuật dời thần kinh để trồng răng hàm dưới và cấy implant xương gò má hàm trên.
Để chuẩn bị tốt cho ca phẫu thuật của Long, Tiến sĩ Nhân dành nhiều thời gian nghiên cứu và phân tích hình thể xương cũng như các cấu trúc giải phẫu quan trọng như mạch máu, thần kinh, xoang hàm, ổ mắt... nhằm xây dựng kế hoạch phẫu thuật cũng như phục hình chính xác, chặt chẽ.
Sau phẫu thuật, tình trạng sức khỏe Long ổn định, hồi phục tốt. Bên cạnh đó, chàng trai trẻ còn được phẫu thuật ghép nướu sừng hóa để tăng chiều dày của nướu quanh implant, đây là kỹ thuật khó nhưng cần phải thực hiện vì đảm bảo kết quả lâu dài. Sau đó, mới hoàn tất công đoạn thay răng sứ cố định.
Long chia sẻ, sau khi trồng răng hai hàm, cậu đã cảm nhận được vị ngon, ngọt của thức ăn, có cảm giác thích và thèm ăn - điều trước đây không có, khuôn mặt cải thiện. Giờ đây, cậu không còn mặc cảm khi đứng trước đám đông và tự tin theo đuổi đam mê, tình yêu…
Bước tiến mới của nền nha khoa Việt Nam hiện đại
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Võ Văn Nhân, việc kết hợp song hành hai kỹ thuật này đem lại hy vọng cho những bệnh nhân không răng bẩm sinh cũng như bị mất răng có tiêu xương hàm trên trầm trọng hay trường hợp bị cắt bỏ xương hàm trên do nhiều nguyên nhân.
“Ca phẫu thuật không chỉ giúp bệnh nhân phục hồi chức năng ăn nhai và thẩm mỹ, mà còn giúp họ giải tỏa tâm lý, phát triển về thể chất, tâm sinh lý và xã hội”, ông nói thêm.
Trước đó, ông từng thực hiện kỹ thuật này cho chị Thu Trang (Ha Nội) - bệnh nhân thiếu răng bẩm sinh, phải đeo hàm tạm tháo lắp suốt 30 năm.
Công trình dời dây thần kinh và cấy ghép Implant xương gò má cải tiến của tiến sĩ Nhân đã được công bố trên tạp chí khoa học về phẫu thuật miệng và hàm mặt quốc tế (IJOMS), được mời báo cáo tại hội nghị "Phẫu thuật miệng và hàm mặt quốc tế" - ICOMS vào tháng 3 tại Hong Kong. Ông cũng được mời báo cáo tại hội nghị Implant Quốc tế Rhein’83 ở Italy vào ngày 8/6 vừa qua.
Tiến sĩ Nhân còn hai công trình được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế, gồm cấy ghép implant xương gò má - báo cáo loạt ca lâm sàng trên Tạp chí phẫu thuật Miệng Hàm Mặt Quốc tế - IJOMS(2015); kỹ thuật ghép xương và cấy ghép implant cho bệnh nhân khe hở môi vòm miệng trên Tạp chí khe hở môi vòm miệng sọ mặt - CPCJ (2016).
Ông còn là giảng viên implant tại nhiều trường đại học tại Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên tạp chí khoa học, nhiều bài báo cáo tại các hội nghị lớn trong nước và quốc tế.
Thi Quân