Với một chút tế nhị, ông F. Frattini, Bộ trưởng Ngoại giao Italy viết trên Financial Times: “Khái niệm các cuộc gặp giữa những bên tham gia được lựa chọn bàn về các vấn đề xác định trước, nằm ngoài các quy tắc chung, có nguy cơ gây ra những chia rẽ mới trong nội bộ Liên minh. Giống như cuộc gặp thượng đỉnh ba bên hôm nay, những hội nghị kiểu này đi ngược lại những thực tế đàm phán và phương pháp đặc trưng cho Cộng đồng châu Âu kể từ khi nó được thành lập”.
Trên đây là những phản ứng gay gắt của Italy, một trong ba “nước lớn” của Cộng đồng Than Thép châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu ngày nay, được thành lập năm 1950 của thế kỷ trước. Phản ứng của Italy đã mở đầu cho một loạt những chỉ trích khác đến từ các nước thành viên EU như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và thậm chí cả Ba Lan, nước phải chờ đến ngày 1 tháng 5 tới mới có thể trở thành thành viên của Liên minh.
Nếu như phản ứng của Italy có thể được giải thích bằng sự chua xót của nước từng là một trong những trụ cột xây dựng châu Âu, nay bị gạt ra bên lề bởi các ông lớn khác, thì nó vẫn có một điểm chung với thái độ của các nước khác là sự lo ngại trước nguy cơ hình thành một cơ chế làm việc mới bao gồm ba nước lớn Anh - Đức – Pháp đứng trên và chỉ đạo các thể chế và các thành viên khác trong Liên minh.
Tiến trình hội nhập châu Âu được khởi động từ giữa năm 1950 với tuyên bố 9/5/1950 của bộ trưởng Ngoại giao Pháp R. Schuman về hợp tác Pháp - Đức trong lĩnh vực sản xuất than và thép. Cộng đồng Than Thép châu Âu bao gồm 6 nước Bỉ, Đức, Hà Lan, Italy, Luxemburg và Pháp được khởi động một năm sau đó. Năm 1957, sáu nước đi đến ký kết Hiệp định Roma về Cộng đồng Nguyên tử năng châu Âu (Euratom) và Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC). Sau ba lần mở rộng vào các năm 1973 (cho các nước Anh, Ireland và Đan Mạch), năm 1982 (cho Hy Lạp) và năm 1986 (cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha), định ước duy nhất châu Âu được ký kết và phê chuẩn xác định mục tiêu “thực hiện từng bước xây dựng liên minh kinh tế - tiền tệ”. Năm 1992, các nước Cộng đồng châu ký Hiệp ước Maastricht đặt cơ sở chính trị và pháp lý cho việc xây dựng Liên minh châu Âu (kể từ ngày 1/1/1993).
Kể từ đó đến nay, Liên minh châu Âu đã đi những bước lớn trên con đường hội nhập. Thành công đáng kể nhất là việc đưa vào lưu hành thành công đồng tiền chung Euro (1999) sau những thành công trong việc thực hiện “bốn tự do hoá” (lao động, hàng hoá, dịch vụ, vốn) ở những năm đầu thập kỷ 1990. Ngoài ra, những tiến bộ trong lĩnh vực quyền công dân châu Âu với quyền bầu cử và quyền bảo hộ công dân, trong hợp tác về an ninh và chính sách đối ngoại (Liên minh châu Âu đã chỉ định ông J. Solana làm Đại diện về chính sách đối ngoại và an ninh chung)… cũng đã đưa Liên minh gồm 15 nước (với ba thành viên mới gia nhập năm 1995 gồm Áo, Phần Lan và Thuỵ Điển) lên một tầm cao mới. Châu Âu trở thành một mẫu hình hợp tác khu vực thành công nhất. Và đó cũng là một trong những giải thích có thể cho nguyện vọng sớm gia nhập Liên minh của các nước Trung, Đông và Nam Âu còn lại.
Trong suốt tiến trình xây dựng châu Âu, phương pháp được lựa chọn là đi từ hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể rồi mở rộng ra các lĩnh vực khác (phương pháp Monnet). Nhưng song song với hợp tác và hội nhập khu vực giữa tất cả các nước trong Cộng đồng, còn tồn tại một hình thức hợp tác khác giữa hai nước Đức và Pháp, hai cựu thù trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Chính sự hoà giải và hợp tác giữa hai nước này đã là đầu tầu cho hội nhập của châu Âu.
Thế nhưng những hình ảnh thân thiện giữa J. Chirac và G. Schroeder nhân dịp kỷ niệm 40 năm Hiệp ước Élysée ký ngày 27/1/1963 giữa C. De Gaulle và K. Adenauer lại không được các nước trong Liên minh châu Âu nhìn nhận với những cảm xúc tương đồng.
Với dự án xây dựng Liên minh châu Âu trên ba trụ cột là kinh tế tiền tệ, chính sách tư pháp và quyền công dân châu Âu, chính sách đối ngoại và an ninh chung, kể từ sau Chiến tranh Lạnh, hình thức hợp tác giữa các nước được gọi là trụ cột (noyau dur) không còn được các nước khác nhìn nhận một cách tích cực. Tiến trình dân chủ hoá, phổ quát quyền công dân châu Âu và mở rộng Liên minh đã làm cho các nước nhỏ ngày càng ý thức được nguy cơ bị cuốn theo những thoả thuận giữa các nước lớn và vượt ra tầm kiểm soát của họ. Những xu hướng bảo vệ chủ quyền dân tộc ở nhiều nước đã buộc các nước nhỏ phải có lập trường cứng rắn hơn trong các cuộc đàm phán và kết quả Hội nghị thượng đỉnh Nice 2000 hay thất bại của Hội nghị thượng đỉnh Bruxelles mới đây là những hệ quả tất yếu.
Nhằm vượt qua những trở ngại trên, các nước lớn trong Liên minh châu Âu đã đồng thời tiến hành những bước đi riêng rẽ với mục tiêu tiếp tục áp đặt ảnh hưởng của riêng mình lên tiến trình hội nhập còn nhiều khó khăn của châu Âu, tìm cách giải quyết những vướng mắc tồn tại giữa họ và thúc đẩy tiến tình hội nhập của Liên minh.
Nước Đức thống nhất không còn muốn chỉ là anh bạn trung thành dễ tính mà là một đối tác ngang hàng của nước Pháp. Người Đức cũng không muốn mình mãi là “con bò sữa châu Âu” trong khi bên kia song Rhine người Pháp luôn là những người vận động hăng hái nhất cho chính sách nông nghiệp chung mà họ đang được hưởng lợi. Thuế VAT, niên liễm hay cả việc mở rộng sang phía đông cũng là những bất đồng giữa "duo" này.
Thế nhưng bộ đôi Đức – Pháp tiếp tục những bước xích lại gần. Tháng 7 năm 1994, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Đức đã nện gót giầy trên Đại lộ Élysée. Một thoả ước về chính sách nông nghiệp chung giữa Đức và Pháp đã cho phép cả hai bên được thoả mãn. Hai nước cũng đã đạt được những nhượng bộ đáng kể trong việc mở rộng Liên minh cũng như việc phân phối phiếu bầu trong các cơ cấu chính trị chung giúp cho Hiệp ước Nice 2000 được ký kết. Hai bên cũng đi đến việc cử cố vấn chính sách song phương bên cạnh nguyên thủ quốc gia của mỗi nước (một cố vấn người Đức bên cạnh tổng thống Pháp và một cố vấn người Pháp bên cạnh thủ tướng Đức). Các cuộc gặp thượng đỉnh và họp nội các chung cũng được tổ chức thường kỳ. Và có lẽ biểu hiện rõ nhất cho hợp tác Đức - Pháp là lập trường chung của hai nước trong cuộc chiến của Mỹ tại Iraq năm 2003.
Nhưng nước Pháp của Chirac không chỉ chọn mình Đức là đối tác khi họ nhận thức được thế yếu của mình trước một nước Đức thống nhất. Bên kia eo biển Manche những tín hiệu mới đã được phát đi ngay khi T. Blair dọn đến về số 10 phố Downing. Ngay khi lên nắm quyền, T. Blair đã công khai bày tỏ tham vọng đưa nước Anh trở lại với châu Âu nhằm áp đặt ảnh hưởng lên châu lục và tiến trình xây dựng Liên minh châu Âu. Nếu như ông Blair không thành công trong việc đưa nước Anh tham gia chuyến tàu Euro như dự định thì thoả ước với Pháp năm 1998 về một sáng kiến phòng thủ châu Âu hoàn toàn đi theo hướng này. Thế nhưng những bất đồng sâu sắc giữa hai bờ eo biển vẫn còn tồn tại. Các thần dân của Nữ hoàng không chấp nhận ưu đãi về khoản niên liễm mà bà Đầm Sắt Thatcher đã giành được. Chính quyền Công đảng của ông Blair vẫn ưu tiên mối quan hệ xuyên Đại tây dương hơn là mối ràng buộc với Cựu lục địa.
Tháng 9 năm 2003, một công thức mới đã chính thức được khởi động : 2 + 2 = 3. Với sự thoả hiệp của Hoa Kỳ, Hội nghị thượng đỉnh ba nước Anh - Đức – Pháp đã đi đến quyết định thành lập bộ tư lệnh độc lập châu Âu trong lòng NATO. Tại Bruxelles, cả ba nước cũng đã chính thức tuyên bố ủng hộ dự án phân chia phiếu bầu trong dự thảo Hiến pháp chung bị các nước nhỏ như Tây Ban Nha và Ba Lan phản đối. Và lần này, Hội nghị thượng đỉnh ba bên đi vào thảo luận những vấn đề chính của Linh minh châu Âu mở rộng sau thất bại của hội nghị Bruselles mới đây bàn về Hiến pháp chung Liên minh châu Âu.
Không phải chờ đến khi cuộc gặp tại Berlin được khai mạc, những tiếng chỉ trích đã vang lên từ mọi phía của châu Âu. Trong bức thư ký chung gửi Ai-len, nước chủ tịch đương nhiệm Liên minh châu Âu, nguyên thủ các nước Ba Lan, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Estonia, Italy, Tây Ban Nha tuyên bố “châu Âu cần có thị trường lao động linh hoạt hơn” chứ “không cần nhưng cơ chế hay tiến trình mới”. Họ cũng không quên nhắc lại rằng các “nước lớn” hiện đang là những nước vi phạm những điều khoản mà chính họ đã muốn áp dụng cho tất cả các nước. Nhắc đến điểm này, nguyên thủ sáu nước đã trực tiếp chỉ trích hành động vi phạm Định ước ổn định của chính phủ Đức và Pháp năm vừa qua. Lá thư cũng bày tỏ sự lo ngại về “việc huỷ hoại không khí tin tưởng giữa các thành viên”.
Mặc cho những chỉ trích từ các nước khác, cuộc gặp thượng đỉnh tại Berlin có vẻ như đạt được những kết quả đáng khích lệ. Ba nước nhất trí về một vị trí phó chủ tịch Ủy ban châu Âu phụ trách cải cách kinh tế nhằm giải quyết các vấn đề xã hội. Một thoả thuận về hài hoà thuế VAT trong lĩnh vực ăn uống cũng đã được bàn bạc và đi đến thoả hiệp. Bằng những kết quả này, sau cuộc gặp hôm qua các ông lớn đã lên tiếng vỗ về các nước phản đối rằng Anh, Đức và Pháp “không muốn thống trị ai và nhất là ở châu Âu”. Hay như T. Blair rằng “nếu như chúng tôi muốn đạt đến những thoả thuận tốt là vì tốt cho đất nước chúng tôi và tốt cho châu Âu. Tôi không nghĩ rằng chúng tôi phải xin lỗi cho dù dưới bất cứ hình thức nào".
Vấn đề còn lại là liệu các nước “bé” khác có chấp nhận những cái “tốt” mà những ông lớn đang muốn mang lại cho đất nước của riêng họ và của chung châu Âu hay không ?
Vũ Hồng Hà
Cùng một tác giả:
Chinh phục sao Hỏa hay một 'cuộc chiến không gian' mới?
2003 - năm nóng bỏng của trái đất
Thần Châu 5 - thành công trên nhiều phương diện
Chiến tranh Iraq - ủng hộ và phản đối