![]() |
Ronald Reagan và vợ, bà Nancy. |
Ronald Wilson Reagan - cựu ngôi sao điện ảnh, tổng thống thứ 40 của nước Mỹ - là người cao tuổi nhất vào Nhà Trắng (ở tuổi 69), nhưng luôn tràn đầy tự tin và lạc quan. Ông qua đời hôm thứ bảy tuần trước ở Los Angeles, ở tuổi 93.
Những người chỉ trích gọi phương thuốc kinh tế của Reagan - đẩy mạnh giảm thuế cho người giàu và giảm bớt bàn tay quản lý của chính phủ - là “chính sách kinh tế nhỏ giọt”. Đến cuối thập kỷ, đất nước nợ 3.000 tỷ USD.
Còn những người ủng hộ lại lập luận rằng nó đã giúp nền kinh tế ra khỏi tình trạng trì trệ thập kỷ 1970, khi lạm phát tăng vọt và lãi suất cao ngất ngưởng. Kinh tế Mỹ phát triển mạnh từ cuối năm 1982 đến tháng 7/1990, tạo ra gần 20 triệu việc làm và giúp thị trường chứng khoán phát triển mạnh cho đến năm 2000.
Gần một phần tư thế kỷ kể từ khi Reagan bước chân vào Nhà Trắng, chính sách kinh tế của ông vẫn còn gây chia rẽ sâu sắc. Câu hỏi liệu học thuyết Reaganomics có lợi hay hại cho nước Mỹ , công bằng hay bất công cho các nhóm thu nhập khác nhau, chắc sẽ không bao giờ tìm được câu trả lời cuối cùng.
Cuộc tranh cãi tiếp tục dưới thời Tổng thống đương nhiệm George W Bush - người chủ trương giảm thuế mạnh, và phải chứng kiến sự quay trở lại của thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, giờ đây, nền kinh tế phục hồi sau sự trì trệ năm 2001.
Học thuyết Reaganomics dựa vào quan điểm cho rằng một khi giảm thuế, người lao động sẽ giữ thêm một khoản tiền trong thu nhập của họ và đổ sang chi tiêu, giúp tăng cầu cho sản xuất. Điều này dẫn tới thêm đầu tư và công ăn việc làm. Sản lượng tăng, sức ép lạm phát giảm và tiền tệ lưu thông giúp kiểm soát thâm hụt ngân sách.
William Niskanen - cựu chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế của Reagan, hiện giữ chức chủ tịch Viện Cato - nhận định rằng học thuyết đa phần đã thành công. Chính sách được áp dụng, vào thời điểm Reagan bắt đầu đổ tiền vào lĩnh vực quân sự. Giờ đây, người ta cho rằng nó giúp dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô, vì nước này thua Mỹ trong cuộc chạy đua tiêu tiền cho vũ khí.
Năm 1980, khi Reagan được bầu lên, tỷ lệ lạm phát ở mức 13,5%/năm. Nó giảm xuống dưới 5% khi ông từ nhiệm năm 1989.
Dưới sự điều hành của cựu chủ tịch Quỹ dự trữ liên bang (FED) Paul Volcker, tỷ lệ lãi suất lên đến 19% năm 1981 – so với mức 1% ngày nay. Nền kinh tế suy thoái trước khi phục hồi cuối năm 1982.
“Chính sách kiểm soát tiền tệ chặt chẽ, đầu tiên dưới thời Volcker và sau đó dưới thời (chủ tịch FED hiện giờ) Alan Greenspan sẽ không thể nào thực thi, nếu không có sự ủng hộ mạnh mẽ của tổng thống”, Niskanen bình luận.
Reagan sẵn sàng sa thải các kiểm soát viên không lưu khi họ đình công, làm thay đổi vĩnh viễn mối quan hệ giữa giới chủ và công đoàn. Ông chấp nhận tỷ lệ thất nghiệp cao, ủng hộ thị trường tự do và chống lại sự can thiệp của chính phủ.
Cố tổng thống gặp may, vì đúng vào thời gian ông giữ chức, thì Liên Xô trải qua khủng hoảng, và cuối cùng là sụp đổ. Điều này dẫn tới cuộc tranh luận gay gắt về vai trò của ông trong việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Những người ủng hộ thì tuyên bố đó là nhờ vào những chính sách cứng rắn của ông. Còn phe chỉ trích thì nói rằng đó là kết quả tích tụ 45 năm chính sách kiềm chế của Mỹ.
Vào năm 1994, một lần nữa, Reagan lại giành được trái tim của người Mỹ, khi ông tiết lộ mình đang bị bệnh Alzheimer. Trong một bức thư viết tay, ông thổ lộ: “Giờ đây tôi bắt đầu cuộc hành trình tới hoàng hôn của cuộc đời. Nhưng tôi biết rằng với nước Mỹ, sẽ luôn có bình minh tươi sáng ở phía trước”.
Minh Châu (theo Business Times)