Nửa tháng nay, mỗi cú điện thoại gọi đều làm tôi giật thót. Công an có thể đến điệu mình đi bất cứ lúc nào, cho dù Huy Tuấn đã trấn an, mọi chuyện đang được gỡ dần ra để đạt tới cái đích đình chỉ điều tra, không ai phải ra toà, cùng lắm chỉ là nhắc nhở. Chắc hẳn Lưu Văn Đằng không thể không biết chuyện công an đến trường, song rõ ràng anh ta không vội vàng gặp tôi để tìm cách đối phó, mà ngồi chờ động tĩnh. Chỉ đến khi chiều qua Huy Tuấn đã đưa ông giáo sư là thầy của cậu ấy đến, vị chủ tịch huyện mới gọi điện hỏi tôi thêm một số điều về Bích Thuận, nay lại muốn gặp trực tiếp, không biết có việc gì?
Lưu Văn Đằng vốn là học sinh của tôi, hồi tôi còn dạy trường huyện. Có một kỷ niệm thầy trò cách đây đã ba mươi năm, mỗi lần gặp vị chủ tịch huyện này còn hay nhắc lại. Trưa hôm ấy, tôi họp trên Sở Giáo dục, từ thị xã đạp xe về trường, thấy một người dựa lưng vào một gốc cây bên rìa đường, mũ lá úp lên mặt, cái cặp sách vứt bên cạnh. Trò nào tan trường, đã quá trưa còn nằm ngủ vạ vật thế này? Tôi đến lay cậu ta dậy, bỏ mũ, thì ra là Đằng, học sinh lớp 10 A do tôi làm chủ nhiệm. Đằng ở lớp học giỏi toàn diện nên tôi rất có cảm tình. Cậu ngơ ngác mất một lúc mới nhận ra tôi, bật dậy chào, nói là em vừa ngồi nghỉ đã ngủ thiếp đi. Cậu thú thực: Chiều qua em được ăn có một bát cơm, sáng lưng bát ngô bung, đến trưa đói vã mồ hôi, em có bệnh hễ đói là người lả đi thầy ạ. Tiện trong cặp của tôi có cái bánh mì tẩm đường vừa mua ở thị xã, định mang về làm quà cho con chủ nhà tôi trọ, đưa Đằng, chỉ một loáng cậu đã ăn hết. Rồi cậu chạy ra chỗ máng nước đang chảy rỉ rả suốt ngày đêm bên đường, cụm tay làm đài uống liền mấy ngụm. Trở lại, cậu cười tươi bảo, khoẻ rồi thầy ạ.
Ngày đó vừa học được một học kỳ Đằng định nghỉ học, tôi đã đến tận nhà động viên cậu học tiếp mới thấy gia cảnh cậu quả là khó mọi bề. Ông bố Đằng là công nhân lái máy kéo của lâm trường mấy năm trước đã phải nghỉ "một cục" vì yếu sức khoẻ, còn mẹ công nhân vườn ươm, lương ba cọc ba đồng. Đằng là con đầu, cậu bảo với tôi: Em phải đi làm mới có tiền cho hai đứa em gái học tiếp. Thật tiếc, Đằng thông minh, sáng dạ, cậu học vào loại nhất, nhì lớp. Rồi cũng cố được thêm học kỳ nữa, hết lớp mười cậu nghỉ hẳn, xin đi làm công nhân trồng rừng. Dẫu chưa có bằng phổ thông trung học, nhưng trong đội trồng rừng, Đằng thuộc loại có trình độ văn hoá cao nhất, sau được trên tín nhiệm chỉ định đội phó, rồi lên đội trưởng. Ngày đó cậu có sáng kiến chế ra cái cuốc đầu mỏ sắc nhọn đặc biệt chuyên để đào hố trồng cây trên đồi đá sỏi, được cử đi báo cáo trong hội nghị thi đua toàn tỉnh. Dịp ấy tôi cũng có những cải tiến trong đồ dùng dạy học, được thay mặt trường đến dự hội nghị. Thầy trò gặp nhau trước lúc khai mạc, tôi hỏi sáng kiến của em tính ra năng suất đạt bao nhiêu phần trăm? Đằng bảo: Gấp một lần rưỡi thôi, tức nếu hai người cùng đào trong cùng một đơn vị thời gian, bên dùng cuốc cũ được hai hố thì bên cải tiến được ba hố thầy ạ. Nhưng ông Giám đốc kiêm Bí thư Đảng uỷ lâm trường trước khi em đi đã chỉ đạo: năng suất thật như vậy chỉ đáng báo cáo ở cấp huyện, cấp tỉnh phải khác, phải ít nhất là tăng hai trăm năm mươi phần trăm. Rồi cậu chìa bản báo cáo hai trang đánh máy trước mặt tôi bảo: Thầy xem, em cũng phải vẽ vời trong này là tăng năng suất hai trăm năm mươi phần trăm, mà thấy áy náy lắm. Nói dối phải không thầy? Tôi còn lạ gì cái trò phô trương thành tích kiểu ấy, nửa đùa nửa thật bảo: Thi đua là có ít suýt ra nhiều cho đẹp mặt lãnh đạo ấy mà. Nghe tôi nói vậy, cậu học trò mười tám tuổi ấy mắt mở to nhìn tôi hỏi lại: Thật vậy à? Trên lớp thầy nào chẳng dạy trò phải thật thà, không được dối trá, nhưng cuộc đời nhiều khi lại dạy khác.
Có lẽ trong buổi đầu tự thân vận động, Đằng đã nhận thức được ngay cái bài học sát sườn từ nhưng điều cụ thể như thế. Và là người nhanh nhậy, tháo vát chắc hẳn từ đó cậu bắt đầu thay đổi, bắt đầu xử sự theo chiều hướng ngược lại để vừa lòng cấp trên, cũng là để thuận lợi cho bước đường tiến thân. Tôi lại chuyển sang trường khác, thầy trò ít có dịp gặp nhau thường xuyên như trước. Sau này khi tôi về trường thị xã thì qua Bích Hường con gái đầu của Đằng, tôi được biết cậu đã lên phó giám đốc rồi giám đốc lâm trường có trụ sở đóng ở huyện P. Ngay cả khi cậu đã đắc cử chủ tịch huyện, mỗi khi gặp lại, trước mặt quan khách vẫn gọi tôi là thầy xưng em rất cung kính. Một lần có hai thầy trò ngồi đánh chén với nhau, tửu nhập ngôn xuất, anh ta đã bộc bạch cả những điều lâu nay vẫn giữ kín trong lòng. Thầy ạ, hồi em còn làm lâm nghiệp, quanh năm chui rừng, chai tay cầm cuốc trồng cây phủ xanh đồi trọc, vất vả vậy mà vẫn đói, vẫn rách. Rừng dưới con mắt của nhiều người là miếng mồi béo bở, hễ sơ hở là họ gặm liền. Mình được phân công giữ rừng, khôi phục rừng, có một nhúm sao mà lại được với số đông bọn người lúc nào cũng nhăm nhe phá hoại ấy. Thử hỏi, nếu cứ nói đúng thực trạng sau mỗi năm diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp, thì cấp trên có để cho mình yên được không? Bởi thế rừng thật bị phá, rừng trồng mới trên giấy là chính, tỷ lệ cây sống bảo đảm tới chín tám phần trăm. Năm nào chả báo cáo lên trên là vượt mức kế hoạch trồng và bảo vệ rừng; độ che phủ rừng tăng hơn năm trước từ mười lăm đến hai mươi phần trăm. Khi đã là "đầu gà" rồi em mới càng thấm thía phải có nghệ thuật nói dối, nói dối y như nói thật. Vẫn biết mình trình độ phọt phẹt, làm đến giám đốc lâm trường là may lắm rồi. Nhưng em vẫn nuôi chí thoát khỏi ao tù ra biển lớn. Thầy ạ, em mạng tích lịch hoả, tức lửa sấm chớp, bắt đầu con đường ra biển lớn cũng nhờ vào lửa đấy.
Chả là hồi đó ông chủ tịch huyện đến tuổi hưu, hai phó đều dính phốt cả, ông có dấu hiệu tham ô công quỹ; ông đang lên giường với một cô nhân viên trong cơ quan bị chồng cô ta bắt gặp đã suýt xảy ra án mạng. Tổ chức nhòm vào đội ngũ kế cận để tìm người thay thế. Lần ấy có vị quan đầu tỉnh phụ trách tổ chức cán bộ như ông Huy Tuấn bây giờ đi thị sát tình hình, đến lâm trường. Em cũng vừa lên giám đốc. Biết ông này từng học ở Tây, thích sự làm ăn lớn, làm ăn bài bản mới nghĩ ra trò tổng diễn tập phòng chống cháy rừng. Bình thường thì làm gì có phương án phòng chống cháy rừng nào cụ thể đâu, vả lại cũng may suốt thời gian em làm phó giám đốc, giám đốc không xảy ra vụ cháy lớn nào. Chỉ trước khi ông xuống cơ sở một tuần, em đã bài binh bố trận đâu vào đấy. Mỗi đội trồng rừng lập một chốt phòng cháy chữa cháy, làm cái chòi cao để quan sát, phát hiện nơi có khói lửa, các chòi còn được trang bị hệ thống loa phóng thanh liên hoàn. Đoàn kiểm tra tỉnh đến. Toàn lâm trường tổ chức diễn tập, hội thao có đội dập lửa, đội làm đường cản lửa, đội cứu thương đưa người bị bỏng về tuyến sau, tất cả phối hợp nhịp nhàng thông qua hệ thống loa đài do em ngồi một chỗ phát hiệu lệnh. Cuộc diễn tập diễn ra chóng vánh, gay cấn y như thật trong vòng một giờ trước mắt vị quan tỉnh. Không chê vào đâu được. Vị lại đến thăm khu nhà tập thể của cán bộ công nhân viên lâm trường. Em bố trí đưa vào thăm mấy nhà đời sống khá nhất. Họ làm nghề rừng là phụ, đi buôn theo đường tiểu ngạch qua biên giới là chính, nên dư dả có của ăn của để. Cuối chuyến thị sát, vị quan tỉnh hài lòng chốt lại vấn đề: Các đồng chí có nhiều cố gắng trong sản xuất kinh doanh. Tác phong công nghiệp, làm ăn lớn. Điều này lý giải vì sao năm nào sản lượng, năng suất cũng tăng cao, đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện rõ rệt. Trước khi đoàn về em còn kính biếu sếp món quà cây nhà lá vườn: mấy lít mật ong rừng, một bình rượu rắn hổ mang chúa và một bộ gạc sừng hươu. Vị mới hỏi về nhân thân của giám đốc, cậu cán bộ tháp tùng vốn là em họ em, đã được mớm lời từ trước, liền báo cáo: Đồng chí đó còn trẻ, thành phần xuất thân công nhân, từ trình độ bổ túc cấp ba, kiên trì học hàm thụ, năm rồi tốt nghiệp đã có bằng kỹ sư lâm nghiệp. Vậy là so vào tiêu chuẩn cán bộ, đưa ra thường vụ xét đủ cả, còn ai xứng đáng hơn em ngồi vào ghế chủ tịch huyện.
Cũng phải thừa nhận, chủ tịch huyện họ Lưu là tay dám nghĩ dám làm, nhiều tài lẻ, biết cách khuấy động phong trào. Hồi còn ở lâm trường anh đã thuê đạo diễn của đoàn văn công tỉnh về dàn dựng các tiết mục công phu, đặc sắc hễ lần nào đi hội diễn toàn ngành đều đoạt huy chương vàng chứ không chịu bạc hay đồng. Đến khi về huyện, anh vẫn quan tâm đến bề nổi, lập ra đội văn nghệ quần chúng, đội bóng đá, bóng chuyền biểu diễn, thi đấu liên tục vào các dịp lễ tết, các ngày kỷ niệm lớn năm chẵn. Uy tín của anh với cấp trên cao hơn bao giờ hết. Cũng từ khi "ra biển lớn", Lưu Văn Đằng đã thực sự đổi đời, nhà tít trong rừng sâu thuộc đất lâm trường bán đi, chuyển ra thị trấn. Thị trấn được quy hoạch lại, khu đất cán bộ đầu ngành bên Đảng, bên chính quyền đều được bố trí vuông vắn như ô bàn cờ, mỗi suất cả nghìn mét vuông có nhà có vườn ngay bên quốc lộ. Có quyền ký cấp đất, anh gia ơn cho nhiều người trong huyện, còn có những suất đất ngoại giao đối với cán bộ tỉnh, thậm chí cả ở Trung ương, vây cánh, êkíp của anh lại càng mạnh (Với tôi, anh bảo em quên sao được "bát cơm" của thầy, đã cấp cho gia đình tôi một mảnh đất khá đẹp). Suất tình nghĩa như của tôi không phải quà cáp gì nhiều, chứ riêng vụ quy hoạch lại, cấp đất cho cán bộ công nhân viên, người ký sổ đỏ là anh đã ăn đủ. Cũng có nhiều xì xào bàn tán. Anh ta làm gì mà mới một nhiệm kỳ chủ tịch đã xây được nhà bốn tầng, đủ tiền cho con đi du học, hai đứa em vừa ra trường đều đã vào biên chế nhà nước. Nghe nói anh ta đã mua nhà sẵn trên Hà Nội, chờ khi nghỉ hưu là cả nhà chuyển hẳn lên đó. Dư luận vẫn chỉ là dư luận. Cũng có thanh, kiểm tra hàng năm, nhưng rồi mọi chuyện vẫn êm ru.
Tôi còn thích cái tính vui vẻ, chơi tới bến của anh. Từ lâu tôi đã biết vợ chồng anh có trục trặc. Anh cưới vợ rất chóng vánh. Hồi ấy anh là đội trưởng, chị mới xin làm công nhân trồng rừng. Chị vốn người Bắc Ninh, theo gia đình lên miền núi khai hoang. Do có giọng hát trời phú, nên khi vừa biên chế vào đội trồng rừng của anh, chị đã được bổ sung ngay vào đội văn nghệ lâm trường do anh kiêm đội trưởng. Lần gặp anh tôi hỏi: Bao giờ cho thầy ăn cỗ đấy? Anh ta cười bảo, thầy thiêng thật, em đang định lên thầy đưa thiếp thì gặp thầy ở đây rồi. Nói xong anh rút trong cặp ra tệp thiếp, lấy một cái đưa tôi. Anh bảo: Báo cáo thầy, cô ấy là quân của em, mỏng mày hay hạt, một liền chị chính hiệu, chất giọng đủ tiêu chuẩn vang, rền, nền, nẩy thầy ạ. Thầy thông cảm, em mạng tích lịch hoả làm gì cũng nhanh, cô ấy mới xin vào đội em được ba tháng nay thôi đấy ạ. Hôm cưới, có cậu ngồi cạnh ghé tai tôi nói nhỏ: Thầy xem cái bụng cô dâu lùm lùm rồi kìa, cô nào có máu mặt đều được đội trưởng nhà em "kiểm tra" tất. Tay ấy sát gái ra phết đấy. Nhưng mạt cưa mướp đắng thầy ạ, cô dâu nom mặt hiền khô vậy mà cũng chẳng vừa, rất biết cách không cho chú rể bỏ của chạy lấy người. Phải cưới. Tôi thầm nghĩ, cậu học trò của mình vốn thật thà như đếm, lại nhút nhát đến cầm tay con gái cũng chẳng dám, vào đời chưa lâu giờ đã thành tinh rồi! Quả nhiên, chỉ sau nửa năm cậu đã có con, mà đứa trẻ lọt lòng nặng tới ba cân rưỡi, cứng cáp, già dặn chứ không phải đẻ non (!). Nhưng thói đời hễ lấy nhau dễ thì sống với nhau khó chăng? Người ở khu tập thể lâm trường ai cũng bảo nhà anh đội trưởng luôn thấy ồn ào như mổ bò, mà về sau khi đã có con đầu lòng rồi họ cũng chẳng kiêng dè ý tứ gì với người ngoài nữa. Có lần nghe tiếng huỳnh hụych, loảng xoảng trong nhà, sáng ra thấy bên mắt chị thâm tím, mặt anh nhiều vết cào xước, ai cũng ngầm hiểu chiến sự vừa diễn ra đêm qua. Anh không cần che giấu, chỉ vào mặt mình bảo: Nó cào cắn tôi đấy. Ả cũng đứng đấy không ngần ngại lên tiếng: May mà quả đấm của ông đội trưởng bị trệch không thì tôi lòi mắt rồi. Rõ là tại anh tại ả, tại cả đôi đàng! Bên đoàn thanh niên (hồi ấy anh chưa được kết nạp Đảng) đem ra kiểm điểm về việc gia đình không thuận hoà, ảnh hưởng đến phong trào chung, vừa được trên công nhận là "khu tập thể văn hoá mới". Được cái anh, ả đều rất cầu thị, xin hứa sẽ sửa chữa ngay, sửa chữa triệt để. Từ đó không nghe thấy to tiếng trong nhà, không huỳnh huỵch, loảng xoảng, song thỉnh thoảng vẫn thấy bên mắt, gò má hai người thâm tím, cào xước. Ai có hỏi ả cười xoà bảo, vô ý đi vào rừng trồng cây va vào cái cành bên đường nên bị đọng máu ấy mà. Anh cũng tài diễn: Gớm, cái giống gai bụi cây xấu hổ kinh khủng khiếp, hễ chặt dọn lấy mặt bằng là thể nào cũng không tránh khỏi bị cào rách da. Mọi người nghe anh, ả phân bua vậy đều quay mặt đi cười tủm, không bình luận gì thêm. Được cái công tác anh vẫn tích cực, phong trào văn hoá văn nghệ vẫn tham gia nhiệt tình, lại tích cực sửa chữa khuyết điểm đôi khi thiếu kiềm chế đã chót thượng cẳng tay hạ cẳng chân với vợ, rồi anh cũng được Đảng uỷ lâm trường chuẩn y kết nạp. Chẳng bao lâu anh lên phó giám đốc. Việc đầu tiên ở chức vụ mới, là xin cho vợ đi học hệ hàm thụ trường Sư phạm bẩy cộng một của tỉnh, chuyển hẳn sang nghề giáo. Gặp tôi anh bảo: Thầy ạ, vợ chồng cùng đơn vị thất sách lắm, trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường. Tôi hỏi: Cô ấy chuyển, việc nhà êm rồi chứ? Anh cười xoà: Em theo lời dạy của các cụ, tránh voi chẳng xấu mặt nào thầy ạ. Em với cô ấy coi như ly thân. Nhưng tuyệt nhiên không ly dị, ly dị mình hết nặng nợ với vợ, nhưng con lại khổ, không đành lòng.
Lưu Văn Đằng có lần đi công tác qua trường tạt vào thăm tôi, chuyện đến lúc nở như ngô rang, anh bảo: Thầy đúng là mô phạm, nghiêm chỉnh quá. Cũng có lúc phải phá giới chứ. Ngày đó tôi còn nghiêm chỉnh thật, nửa đùa nửa thật mà bảo với trò rằng: Thầy già rồi, đúng như câu các cụ dạy, cơm nhà "lờ" vợ thôi , bì thế nào được với lớp trẻ các cậu. Anh cười cười, giọng tỉnh queo: Nhưng mà cũng có lúc thầy nên ăn một bát phở cho lạ miệng chứ, cơm nhà mãi cũng chán đấy ạ. Đến sau này tôi đã quen với việc "ăn phở", gặp Đằng (lúc đó anh đã lên giám đốc, rục rịch chuyển về huyện) bảo thẳng: Giờ thì thầy nghe lời cậu, thỉnh thoảng cũng muốn xơi bát phở đấy, có biết phở nơi nào ngon không? Đằng cười ranh mãnh hỏi: Phở gia truyền Nam Định được không ạ? Tốt quá! Mà đúng quê cô ta Nam Định thật, còn quá trẻ, chớm vào tuổi mười tám, mới được tuyển dụng vào làm tạp dịch ở văn phòng lâm trường. Phở ngon quá, giá lại rẻ! Từ đó thỉnh thoảng thầy trò gặp nhau, khi thì trò đãi thầy, khi thầy đãi lại. Vui vẻ. Kín đáo. Mãn nguyện.
Trưa. Đúng hẹn tôi đến quán Ngon. Đã thấy Lưu Văn Đằng đang ngồi chờ tôi với một người cũng trạc tuổi anh ấy. Người ấy đứng lên bắt tay, hỏi: Thầy còn nhớ em không ạ? Tôi nhìn anh ta cười, lắc đầu bảo anh thông cảm không thể nhớ hết mặt được mặt hàng ngàn học trò. Đằng giới thiệu ngay:
- Đây là anh Tất Bình, thiếu tá, phó trưởng phòng cảnh sát điều tra công an tỉnh, học cùng trường huyện với em, học trò của thầy hơn ba mươi năm về trước.
Cậu học trò cũ nhìn tôi với ánh mắt đầy thiện chí. Tôi bỗng thấy phấn chấn trong lòng. Đằng khoát tay ra hiệu cho chủ quán, chỉ một loáng nhà hàng đã bê ra các món đầy bàn, có cả một két bia "Ken". Ba cốc bia trào bọt, khổ chủ yêu cầu chạm, trăm phần trăm! Rồi anh rót tiếp, nhanh tay gắp đầy thức nhắm vào bát của tôi. Tất Bình nhìn tôi cười mủm mỉm, lên tiếng trước:
- Thầy ạ. Hôm rồi anh Huy Tuấn đã gặp bên em. Hôm nay thì anh Đằng đã nói trước, chuyện của thầy không có gì phải lo đâu ạ, thầy cứ yên tâm. Giờ em cạn cốc này với thầy là sau bao nhiêu năm mới được gặp lại.
Tôi càng hưng phấn hơn bao giờ hết một hơi hết vại bia. Lia lưỡi một vòng quét hết bọt dính quanh mép, tôi gặng lại Tất Bình:
- Xong mọi chuyện chứ?
- Vâng ạ. Tất Bình gật.
- Cả chuyện của con bé Bích Thuận?
- À, chuyện này thì cũng có chút dích dắc đấy - Tất Bình nói - Chỉ cô ta bị quy về tội môi giới mại dâm thôi ạ. Người khác vô can.
- Tôi sợ thế không ổn - Tôi nói - Cô ta sẽ tố ra nhiều chuyện lôi thôi. Cũng cần cho cô ta thoát tội để hòa cả làng chứ.
- Lúc đầu cũng định thế - Tất Bình nói - Nhưng vụ án đã khởi tố hình sự, thầy biết đấy, đã điều tra rồi, cô ấy khai ra một số người rồi. Vấn đề là bây giờ làm cho cô ta thông, nhận hết...
- Sao cô ta chịu thế.
- Nhưng vẫn có cách thầy ạ. Hứa với cô là cứ chịu nhận đi sẽ vận dụng khung hình phạt thấp nhất, chỉ cảnh cáo trước tòa, hoặc cùng lắm án treo một năm, thử thách hai năm.
- Liệu nó có chịu vậy không?
Đến đây Đằng nói chen vào:
- Đã có dậm dạp trong lần hỏi cung trước rồi thầy ạ. Lần tới sẽ nói rõ hơn để nó nhận hết. Thôi, thầy yên tâm đi, đã có bọn học trò chúng em lo. Nào, cạn tiếp. Mời thầy!
Phạm Quang Đẩu
Còn tiếp...
(Tiểu thuyết "Đánh đu cùng số phận" của Phạm Quang Đẩu, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2012)