Hơn bốn mươi năm về trước, ở vùng ven thị xã này có xóm Hoà Bình là nơi đại đội tôi trú quân trước khi đi B. Nay trở lại, quả đồi trồng bạch đàn liễu cuối xóm giờ đã phủ kín giống vải thiều mang lại nhiều lợi ích kinh tế, còn xóm đã lên phường, nhà lá không thấy, chỉ có nhà mái bằng hai, ba tầng san sát. Ngày ấy Kim Thanh cùng cô bạn đạp xe gần một trăm năm mươi cây số từ Hà Nội đến tận đây thăm tôi. Đầu giờ chiều hôm đó chúng tôi đi "rèn", mỗi người theo quy định phải đeo cả chục viên gạch đỏ trong ba lô con cóc hành quân dã ngoại khoảng hai mươi cây số, luyện về thể lực cùng sức bền bỉ dẻo dai để chuẩn bị cho chuyến vượt Trường Sơn bổ sung vào chiến trường sắp tới. Vừa trở về xóm, mệt nhoài đang ngồi duỗi chân tay cho đỡ mỏi, tiểu đội trưởng đến bảo: Phan Lãng, a- mi xinh tươi đến thăm cậu kìa! Tiểu đội tôi ngày ấy khi nhập ngũ hầu như cậu nào cũng đã có người yêu (lúc đó bọn tôi hay gọi bạn gái của nhau là "a- mi", cũng chẳng cần biết từ đó có từ đâu) và các nàng đều đã lặn lội đến thăm các chàng lính mới ở đây cả, riêng tôi chẳng có a- mi nào. Tôi và Kim Thanh cùng quê, cùng học một lớp. Không hiểu sao ba năm cấp ba, năm nào hai đứa cũng được xếp ngồi một bàn. Tôi vốn còi dí còi dị, học hết phổ thông cao có một mét rưỡi, nặng có bốn mươi nhăm cân, còn Thanh vóc người thanh mảnh, cân đối, mặt trái xoan khi cười có cái lúm đồng tiền nom khá duyên. Tóm lại, vẻ bề ngoài tôi chẳng có điểm gì mạnh, sao có thể với được những em xinh tươi như Kim Thanh cơ chứ. Nhưng Kim Thanh lại hay chủ động quan tâm đến tôi. Có hôm cô mang củ khoai nướng bọc trong mảnh giấy báo, giờ ra chơi hai đứa bẻ đôi bóc vỏ, chén ngon lành. Có hôm cô mang cho tôi tờ giấy thấm mới tinh, bảo Thanh thấy Lãng viết xong không thấm, chữ in sang tờ bên bẩn cả vở. Năm đó tốt nghiệp cấp ba là được vào thẳng đại học luôn chứ không phải thi, tôi ghi nguyện vọng Đại học Bách khoa, còn Thanh chọn Trường Y Hà Nội. Nhưng nhà tôi mấy anh em trai chưa ai đi bộ đội, giấy gọi nhập ngũ lại đến trước giấy gọi đại học, tôi lên đường ngay, về trung tâm huấn luyện tân binh ở tỉnh Q này. Nghe tin Kim Thanh đến tôi hoàn toàn bất ngờ, tỉnh như sáo quên mỏi mệt, chạy vội ra đầu xóm đón cô. Vừa gặp, câu đầu tiên Kim Thanh như reo lên: Phan Lãng lớn phổng lên ấy, cơm gạo lính có khác! Quả tôi cao lên đến dăm, bẩy phân sau ba tháng hè, rồi ba tháng luyện quân, quân trang mặc vừa khít, khoác khẩu AK gọn gàng, nom thực là lính chiến. Các cậu cùng tiểu đội nhìn tôi đứng với Kim Thanh cứ xì xào: a- mi của Lãng còi tiểu đội ta xinh ghê! Nghe thế tôi hơi sượng sùng, còn cô mặt cứ tỉnh bơ, cô đã là sinh viên năm thứ nhất của Trường Y rồi đấy. Cách ăn mặc của cô vẫn nền nã như dạo nào, hai dải tóc kết đuôi sam không lưng lửng nữa, mà dài đến gấu áo nom rõ thướt tha.
Buổi tối hôm đó sinh hoạt toàn trung đội xong, tôi xin phép trung đội trưởng đi chơi khoảng một tiếng. Chúng tôi lên quả đồi thấp ở cuối xóm, ngồi bên nhau dưới gốc cây bạch đàn liễu thân trắng muốt, cao vút. Đúng ngày rằm. Mặt trăng tròn vành vạnh như cái mâm bạc hiện ra sau đám mây, cả một vùng đồi núi, thôn xóm như được dát dải bạc ngời sáng lên trong phút chốc, lại thêm làn sương mù bảng lảng dưới chân đồi nơi chúng tôi ngồi thật thơ mộng. Tôi hỏi: Sao Thanh biết mình ở đây mà đến thăm? Cô nguýt dài: Lãng thật đáng ghét, đi mà chẳng báo, chẳng đến chào người ta. Nhưng người ta lên huyện đội hỏi là biết nơi đóng quân thôi khó gì. Thanh đến Lãng có bất ngờ không? Nghe cô hỏi, tôi quay sang nhìn cô. Dưới ánh trăng đôi mắt vốn to đen của cô như sáng rực lên, lòng tôi cũng lâng lâng một cảm xúc khó tả. Tôi nói nhỏ: Bất ngờ lắm. Tôi định cầm tay cô nhưng không hiểu thế nào lại theo phản xạ tự nhiên rụt tay lại. Lát sau tôi bảo: Sắp đi B rồi, trong ấy dạo này chiến sự ác liệt lắm, Thanh ạ. Ác liệt thì mặc ác liệt, đi cứ đi chứ, cô nhúng nhẳng nói và nhích lại ngồi sát thêm chút nữa. Năm ấy chúng tôi đều mười tám tuổi, tôi chỉ nghĩ với Thanh là thân chứ đâu đã phải yêu, mà có lẽ cô ấy cũng chỉ quý tôi thôi, trong lớp thiếu gì đứa đẹp trai cao ráo để cô lựa chọn. Giờ mình lại sắp đi vào nơi bom đạn, biết sống chết thế nào. Nghĩ vẩn vơ, rồi tôi bỗng hỏi một câu rất chi là ngớ ngẩn: Thanh có người yêu chưa để Lãng mừng?
Chắc hẳn lúc đó cô như bị dội một gáo nước lạnh, tôi thoáng thấy ánh mắt cô tối sầm lại. Thế rồi chúng tôi cứ yên lặng bên nhau hồi lâu, dường như mỗi người đang mải theo đuổi ý nghĩ riêng tư nào đó. Sương xuống đã ướt nhèm cả tóc, tôi biết được điều ấy khi bất chợt vuốt tay lên mái đầu mình. Bỗng vẳng nghe tiếng kẻng của đơn vị báo đến giờ về lán ngủ. Kim Thanh quay sang nói nhỏ: Về thôi. Sáng hôm sau cô chia tay, đôi mắt nhìn tôi đầy thất vọng, tôi thì cho thế là mình đã có một hành động cao thượng, không muốn làm khổ thêm một người con gái ở hậu phương khi mình ra nơi mũi tên hòn đạn. Cô đi rồi tôi bỗng thấy lòng trống trải lạ lùng, như vừa bị mất một thứ gì quý giá lắm không bao giờ có lại được. Mấy cậu bạn trong tiểu đội thì bảo, cái số Lãng còi nhà ta thật đào hoa, người ta quá yêu cậu, không quản thân gái dặm trường tìm đến tận đây, mà trong số các a- mi đến đây, nhất vẫn là a- mi của cậu ấy. Tiểu đội trưởng còn tán sát sạt: Được ôm hôn a- mi xinh tươi dưới ánh trăng huyền ảo trên đồi bạch đàn liễu, nhất cậu rồi. Về sau khi vào chiến trường đã được một năm, lần ấy tôi bị thương nhẹ, mảnh bom phạt ngang bọng chân phải khâu mổ ở bệnh viện dã chiến, nằm cạnh một anh đại đội trưởng cũng bị thương. Tôi kể lại kỷ niệm với cô bạn học ngày ấy trên đồi bạch đàn, anh bảo, mình cũng xử sự với cô bạn gái cùng xóm hồi trước khi đi B hệt như vậy. Giờ nhìn lại mới thấy mình khô khan, lý trí quá, có lẽ thế hệ chúng mình đều là một lũ quỷnh, một lũ trái tim sắt đá, có lỗi với chị em như thế cả. Năm 1972, tôi bị thương thêm một lần nữa ở mặt trận B2, lần này bị nặng hơn, được chuyển ra miền Bắc điều trị, an dưỡng. Hồi đó trên có chủ trương những ai đã qua chiến trường, được trở lại trường đại học thông qua thi tuyển. Tôi vừa dưỡng thương vừa tranh thủ ôn thi, đạt điểm cao nhất khoá ấy, được cử đi học ở Liên Xô. Năm đầu học ngoại ngữ trong nước, lúc đó Kim Thanh sắp ra trường và cô lại đến thăm tôi tại ký túc xá sinh viên. Cô vẫn tươi tắn như dạo nào, chỉ tóc không còn kết đuôi sam mà đã uốn gọn gàng, trông mốt lắm. Cô vừa chia tay người yêu, một bác sĩ học trước vài năm vì cô cho rằng anh ta giả dối, đã thề non hẹn bể với nhau, còn đi lòng thòng với em khác. Tôi thì trái tim vẫn "sắt đá" như vậy, với cô bạn học cùng xóm mỗi lần gặp nhau chỉ là trân trọng và lắng nghe. Cô còn mấy lần đến thăm tôi nữa, cả khi cô đã ra trường về làm việc tại bệnh viện thành phố, mà tôi chẳng đối xử gì khác hơn là một tình bạn, tình đồng hương, đồng khói đơn thuần. Rồi cô đi lấy chồng. Tôi đến dự đám cưới, khi mọi người đã về cả, cô tiễn tôi ra cửa còn hỏi: Lãng đã có đối tượng chưa? Tôi bảo, đang bận bịu với việc chuẩn bị đi nước ngoài nên chẳng nghĩ gì đến chuyện ấy cả. Cô lại bảo: Lãng kén lắm. Tôi kén, hay tôi quá khô khan, quá lý trí, đều đúng cả thôi. Sang nước bạn học tôi tốt nghiệp loại xuất sắc, được chọn làm chuyển tiếp sinh, sau đó bảo vệ thành công học vị tiến sĩ được điều về Viện nghiên cứu công nghệ. Tôi gặp vợ tôi lúc đó đang là nhân viên phòng thí nghiệm của Viện, từ lúc quen đến khi cưới rất chóng vánh.
Người ta nói vợ chồng là duyên số, là duyên nợ, chẳng sai. Vợ tôi là người hết lòng vì chồng con, song có lẽ do quá yêu chồng mà có tính cả ghen, hễ có người phụ nữ nào quen tôi dù chỉ là quan hệ công tác đơn thuần bà ấy cũng nghi ngờ. Một thứ ghen tuông tích tụ lâu ngày trở thành bệnh hoạn. Một lần vợ chồng tôi vào rạp xem phim, lại tình cờ ngồi liền dãy ghế với vợ chồng Kim Thanh, vợ tôi khó chịu ra mặt. Chả là càng già Kim Thanh như càng trẻ đẹp hơn. Về nhà vợ tôi vùng vằng bảo: Lần sau đừng bao giờ rủ người ta đi nữa; cái kiểu cố tình so sánh người ta với người yêu cũ như thế thật chẳng hay hớm gì! Tôi bực quá cự lại: Người yêu cũ bao giờ? Chẳng phải tôi đã kể với bà hết mọi chuyện về cô ấy rồi sao. Việc gì cứ phải ghen bóng ghen gió, tự làm khổ mình thế! Trước khi bà ấy mất vài năm, tôi còn bị giày vò cũng vì những chuyện ghen tuông chẳng đâu vào đâu. Minh Nguyệt là tiến sĩ của một viện bạn, trong nhóm đề tài cấp Nhà nước do tôi chủ trì. Cô còn trẻ, khá xinh, đã có một con trai, chồng đang làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Hôm đó cô đến phòng làm việc của tôi, nhờ chỉ dẫn cho một công thức. Đúng lúc hai người đang lúi húi giở cuốn sách chuyên môn bằng tiếng Anh, thì bà xã tôi đột nhiên xuất hiện ngoài cửa. Bà hầm hầm đi vào và bảo Minh Nguyệt: Thiếu gì giáo sư mà cô cứ đến phiền ông lão nhà tôi thế! Minh Nguyệt ngỡ ngàng, còn tôi thì ngượng chín mặt.
Lại tiếp đến một chuyện nữa. Lần ấy tôi dẫn đoàn làm đề tài cùng một ông thứ trưởng vào Thành phố Hồ Chí Minh, không biết có kẻ nào xấu chơi đến báo với vợ tôi là ông Phan Lãng cùng cô Minh Nguyện đang ra sân bay sắp du hí phương Nam đấy. Thế là bà tức tốc thuê ta-xi đuổi theo. Tại phòng chờ, bà xồng xộc đến chỗ cả đoàn đang ngồi, nhảo mắt tìm cô tiến sĩ kia. Trong chương trình công tác đáng lẽ cô cũng đi chuyến đó, nhưng đến phút chót do cô bị cảm sốt mà phải trả lại vé. Bà chưng hửng, hơi ngượng, nói với anh em trong đoàn là có việc cần hỏi riêng tôi. Rõ giấu đầu hở đuôi, cần thì gọi điện thoại di động trao đổi việc gì phải làm vậy. Anh em trong đoàn đều biết bà có máu Hoạn Thư, nhưng nể tôi không nói ra. Tôi bực lắm song chẳng thể làm ầm ĩ trước đông người, mà đành cười gượng cho qua. Trở về sau chuyến công tác, buồn mà chẳng thể làm gì hơn là giữ im lặng kéo dài với bà. Rồi không thể chiến tranh lạnh mãi được, một lần tôi bảo: Nếu bà thấy tôi không chung tình thì cứ viết đơn ly dị, tôi ký. Bà liền bù lu bù loa vật vã, nói ông giả dối lắm, ông có mới nới cũ. Ký thì ký. Nhưng bà chỉ dọa, không ký.
Ngày đó Đỗ Quyên đang học lớp mười hai, biết chuyện bất hòa của bố mẹ nó khóc, nói với tôi: Con đã bảo thẳng với mẹ, bố không có lỗi gì cả, chỉ vì mẹ quá đa nghi, luôn lo sợ mất bố mà hành động mù quáng như vậy. Bố mẹ ly dị thì con biết sống với ai? Tôi an ủi Đỗ Quyên: Vì con bố sẽ cố chịu đựng. Mẹ con thần kinh không khoẻ sinh ra lẩn thẩn như thế, từ rày bố sẽ bỏ qua những chuyện ấy để giữ hòa khí trong nhà, được chưa. Đỗ Quyên đã tâm sự lại với mẹ thế nào đó, sau lần ấy bà có chuyển tâm tính, đỡ xét nét với tôi hơn. Không hiểu sao chuyện ghen tuông trong nhà, anh em Viện cũng biết, họ kháo nhau: vợ cắm sừng khổ đã đành, nhưng được vợ yêu quá như ông Phan Lãng cũng khổ không kém.Tổ ấm hạnh phúc của gia đình tôi vun đắp lại chưa được bao lâu thì tai hoạ ập đến. Thần kinh vợ tôi vốn đã yếu, sau cái chết thảm của Đỗ Quyên, bà bị sụp đổ hoàn toàn, thêm căn bệnh tim mạch, mấy lần ngất xỉu phải đi bệnh viện cấp cứu. Phút lâm chung trên giường bệnh, bà cầm tay tôi nói trong nước mắt: Em làm khổ anh nhiều quá, đến lúc này anh có tha thứ cho em không? Hai mươi năm sống với nhau, tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, giờ phút tử biệt sinh ly đau lòng như vậy đâu còn có ý nghĩ hờn giận nào. Tôi áp tay vợ vào má mình, nước mắt cứ lã chã rơi xuống ướt đẫm các ngón tay gầy guộc của bà, nghẹn ngào: Em đi rồi, còn một mình anh biết sống ra sao đây!
Phạm Quang Đẩu
Còn tiếp...
(Tiểu thuyết "Đánh đu cùng số phận" của Phạm Quang Đẩu, do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2012)