![]() |
Một binh sĩ Iraq. |
Trước đó, hồi mùa hè năm 1990, mâu thuẫn dâng cao giữa hai quốc gia láng giềng. Chính phủ Iraq không ngừng đưa ra các yêu sách. Baghdad đòi hoàn lại thặng dư dầu hoả mà Kuwait đã bơm trong vùng Roumeillah, một tầng dầu khổng lồ ở biên giới và được khai thác chung giữa hai nước.
Để hỗ trợ việc tập trung số lớn quân đội đóng gần lãnh thổ Kuwait, người Iraq đã tiến hành một loạt các động tác nghi binh. Điều này đã khiến nhà chức trách Kuwait xao lãng. Họ cho rằng Iraq chỉ “diễu võ giương oai” nhằm gây sức ép. Ngày 24/7/1990, ông Saddam Hussein tuyên bố với Tổng thống Ai Cập Hosni Moubarak: “Những cuộc thảo luận giữa Iraq và Kuwait kéo dài khá lâu. Tôi không can thiệp bằng sức mạnh quân sự trước khi hết khả năng thương lượng”. Sau đó, ông Moubarak cũng truyền đạt lại ý kiến đó cho phía Kuwait, rằng Baghdad sẽ không sử dụng vũ lực. Những tưởng mọi chuyện sẽ dừng lại. Nhưng rạng sáng ngày 2/8/1990, Iraq bắt đầu tấn công vào Kuwait. Sau cuộc tấn công chớp nhoáng, quân Iraq đã chiếm được thủ đô Kuwait, dựng lên ở đây một chính phủ mới. Dù đã dồn sức trong cuộc chiến chống lại nước Cộng hoà Hồi giáo Iran trước đó, tiềm lực quân sự của Iraq vẫn mạnh, với đội quân hàng trăm nghìn binh sĩ và vũ khí trội hơn trong thế giới Ảrập.
Diễn biến chiến tranh mới này đã khiến giá dầu trên thế giới tăng vọt. Giá USD và giá vàng ở một số thị trường chứng khoán cũng lên cao. Nhật Bản là nước bị ảnh hưởng nhiều nhất do phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ nhập khẩu.
Ngày 2/8/1990, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã nhóm họp khẩn cấp, thông qua nghị quyết về vấn đề Iraq với 14 phiếu thuận, lên án hành động quân sự và yêu cầu Iraq phải rút ngay quân đội về nước. Ngoài ra, cả Mỹ và Liên Xô lúc đó đều lên án hành động của Baghdad. Matxcơva còn quyết định ngừng toàn bộ việc cung cấp vũ khí cho Iraq. Tổng thống Mỹ Bush (cha) coi hành động của Baghdad là một điều không thể tha thứ được. Bộ Ngoại giao Mỹ thông báo đã có một số công dân nước này bị Iraq bắt giữ. Ông Bush tuyên bố: “Nếu họ bị phương hại thì tôi phải có những trách nhiệm nhất định. Tôi chưa tính tới hành động quân sự, và lúc này cần phải áp dụng sức ép chính trị và kinh tế”.
Ngày 10/8/1990, với sự tham gia của Phó tổng thống Iraq Taha Yassin Ramadan và Bộ trưởng Ngoại giao Tareq Aziz, một hội nghị thượng đỉnh ở Cairo dưới sự bảo trợ của Tổng thống Ai Cập Moubarak diễn ra trong không khí hết sức căng thẳng. Chỉ một ngày trước, đài phát thanh Baghdad thông báo chính thức sáp nhập lãnh thổ Hồi giáo Kuwait thành tỉnh thứ 19 của Iraq.
Tờ USA Today đánh giá rằng động cơ của cuộc xâm lược này là kinh tế. Iraq muốn có nguồn dầu mỏ để từ đó bán lấy tiền trang trải các khoản nợ nhiều tỷ USD sau cuộc chiến với Iran. Dầu lửa là một trong những yếu tố then chốt của cuộc xung đột này và sẽ có tác động trực tiếp tới Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở châu Âu nếu chiến sự lan ra cả vùng Vịnh. Báo này viết, được vũ trang bằng 1.200-1.500 xe tăng, 700-800 máy bay chiến đấu và cả tên lửa có thể bắn tới bán đảo Ảrập, Hussein rõ ràng có khả năng làm điên đảo khu vực này giống như Hitler đã làm với Trung Âu trong những năm trước khi nổ ra Chiến tranh Thế giới II.
Liên tiếp trong mấy ngày đầu tháng 8, các tàu chiến của Mỹ ở vùng Vịnh đã được đặt trong tình trạng báo động cao nhất. Các tàu sân bay Independence và Eisenhower cũng tiến vào vịnh Persian để máy bay từ các tàu này có thể tấn công Iraq. Tuy nhiên, vẫn chưa có hoạt động của lực lượng bộ binh hay lính thuỷ đánh bộ.
Về khả năng Mỹ dùng quân sự chống Iraq, tờ New York Times bình luận: “Mỹ sẽ không dễ buộc Iraq phải rút quân khỏi Kuwait”. Tờ này dẫn lời các quan chức Bộ Quốc phòng cho rằng, lý do quan trọng khiến Mỹ không thể khai hỏa là do Mỹ chưa thể huy động ngay một lực lượng quân sự đủ mạnh để đối phó với Iraq. Họ đặt giả thuyết là nếu Lầu Năm Góc triển khai hai sư đoàn cơ giới bọc thép thì cũng phải mất một tháng và với điều kiện Ảrập Xêút cho phép.
Các nhà ngoại giao và chyên gia quân sự cho rằng mối nguy hiểm duy nhất đối với Iraq là sự trả đũa nhanh chóng của lực lượng quân sự Mỹ. Song đó lại là bước đi mà Washington chưa sẵn sàng thực hiện vì lực lượng vũ trang Iraq lúc đó được đánh giá là thiện chiến và được trang bị tốt nhất ở vùng Vịnh.
Hơn nữa, chính quyền Washington phải cân nhắc kỹ càng mọi điều vì phần thắng nghiêng về Baghdad rất có thể làm cho Iraq trở thành cường quốc ngự trị ở vùng Vịnh, có được tiếng nói lớn hơn nhiều trong các quyết định liên quan tới sản xuất dầu mỏ và giá dầu. Ngoài ra, cuộc tấn công có thể trở thành điểm tập hợp của những người Ảrập vốn bực tức với ảnh hưởng của Mỹ trong cộng đồng thế giới và đang cảm thấy một số nước Trung Đông như Ai Cập đã đi quá xa trong việc hợp tác với Washington.
Tuy nhiên, tới ngày 12/1/1991, Quốc hội Mỹ thông qua quyết định sử dụng vũ lực chống Iraq. 6 ngày sau đó, lực lượng liên quân do Mỹ đứng đầu đã khai mào chiến dịch “Bão táp sa mạc”, bắt đầu cuộc không kích đất nước vùng Vịnh.
Bá Thùy (AP, Reuters, TTXVN)