![]() |
Rất ít doanh nghiệp sản xuất linh kiện ôtô. Ảnh: A.T. |
Theo Viện trưởng Viện chiến lược công nghiệp Phan Đăng Tuất - một trong những tác giả bản dự thảo, cho tới nay vẫn chưa có một khái niệm cụ thể nào cho ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam. Số lượng các doanh nghiệp nội địa tăng lên khá nhanh nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất các chi tiết, linh kiện có kích cỡ cồng kềnh và công nghệ đơn giản.
Ông Tuất chỉ ra 3 hình thức phổ biến của công nghiệp phụ trợ hiện nay. Phụ trợ "ruột" đang được một số công ty triển khai, chẳng hạn VMEP đã xây dựng được một hệ thống các nhà cung cấp gồm 17 công ty, tập trung sản xuất các linh kiện, phụ tùng mà các doanh nghiệp nội địa chưa sản xuất được hoặc với số lượng chưa đủ.
Hình thức "hợp đồng" phổ biến ở công nghiệp xe máy. Đây là cam kết giữa các nhà cung ứng với các công ty lắp ráp theo từng yêu cầu và trong từng thời điểm nhất định. Trong hệ thống các nhà cung ứng cho các công ty lắp ráp tại VN, số doanh nghiệp nội địa ít và tỷ lệ giá trị thấp.
Ngoài ra, các nhà sản xuất có thể bán linh kiện trên thị trường, không theo một cam kết nào đối với các nhà lắp ráp. Hình thức này chưa được phát triển ở Việt Nam vì các nhà lắp ráp ngại mua sắm sản phẩm đầu vào trôi nổi trên thị trường.
Trong quá trình xây dựng dự thảo, Viện chiến lược Công nghiệp đã khảo sát khá kỹ yêu cầu của các tập đoàn Nhật Bản đối với các nhà cung ứng linh kiện. Cụ thể, họ thường đặt ra 4 vấn đề bao gồm nguyên vật liệu, chất lượng sản phẩm, giá cả và một số dịch vụ kèm theo. Chẳng hạn, các sản phẩm từ nguyên liệu chì nhất thiết phải được nhập từ Australia và Nhật, các sản phẩm từ thép phải được nhập từ Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan... Khi nhận hàng, các công ty lắp ráp (các công ty Nhật Bản) luôn chọn mẫu và dùng các thiết bị kiểm định với công nghệ cao để phân tích nguồn gốc nguyên vật liệu.
Kịp thời trong việc cung cấp đầy đủ khối lượng hàng là tiêu chí quan trọng, nhưng lại là yếu điểm của các doanh nghiệp Việt Nam. Theo đánh giá của các nhà quản lý công ty lắp ráp FDI trong lĩnh vực xe máy, doanh nghiệp Việt Nam không mấy coi trọng yếu tố thời hạn trong cam kết giao nhận hàng hoá. Trong khi tiến độ lắp ráp và kế hoạch phụ tùng, linh kiện chính xác đến hàng ngày thậm chí hàng giờ thì đại đa số các nhà cung cấp chậm từ 10 đến 15 ngày.
Không phải các doanh nghiệp VN hoàn toàn không có điểm mạnh. Lợi thế của VN theo kỹ sư Fukushima Yuichi, chuyên gia của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản, con người VN rất nghiêm túc với công việc, không có sự lười nhác về thời gian như vẫn thấy ở một số nước Đông Nam Á. Nếu như được hướng dẫn về quản lý kinh doanh, sản xuất hiện đại thì các công ty vừa và nhỏ sẽ có khả năng nâng cao trình độ rất nhiều.
Trong bản dự thảo chiến lược, Bộ Công nghiệp sẽ ưu tiên phát triển 4 lĩnh vực là cơ khí, ôtô, điện tử tin học và dệt may da giày. Một số giải pháp được đề cập như doanh nghiệp tham gia sản xuất linh kiện được vay vốn dài hạn, được miễn thuế lợi tức đối với lợi nhuận tái đầu tư. Chính phủ sẽ thiết lập cơ quan đầu mối, các tổ chức thông tin chuyên nghiệp về công nghiệp phụ trợ nhằm hỗ trợ các nhà phụ trợ nội địa thông tin về yêu cầu cũng như mong muốn của các nhà lắp ráp FDI về các loại, dòng sản phẩm. Hiện có ba trung tâm tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP HCM đã đi vào hoạt động.
Bộ trưởng Hoàng Trung Hải thì chỉ đạo từ nay trở đi trong quy hoạch tất cả các ngành công nghiệp phải có công nghiệp phụ trợ đi kèm, Nhà nước sẽ đề ra các điều kiện ràng buộc doanh nghiệp.
Tuy định hướng như vậy nhưng thực hiện lại không dễ. Tổng thư ký Hiệp hội cơ khí VN Đào Phan Long cho hay, suốt 10 năm qua rất nhiều chính sách được đề ra, hàng trăm cuộc họp, đề án được tổ chức nhưng ngành cơ khí VN vẫn ì ạch, máy móc phục vụ chế biến nông sản, thực phẩm phần lớn đều phải nhập.
Việt Phong