![]() |
Bà Phạm Chi Lan. Ảnh: VCCI |
- Theo bà, đâu là nguyên nhân dẫn tới việc cứ thanh tra các doanh nghiệp nhà nước là phát hiện sai phạm?
- Điểm đầu tiên dễ nhận thấy là hệ thống giám sát quá kém. Ngay tại các nghị định, luật phần giám sát thực hiện tại các doanh nghiệp cơ quan nhà nước thường chỉ chiếm khoảng 7 dòng so với mấy chục trang, mấy trăm điều của cả văn bản. Luật cũng chỉ nói chung chung công chức, cơ quan mà vi phạm sẽ phải xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong khi đó, các tổng công ty có cơ chế hoạt động rất bất ổn, không rạch ròi trách nhiệm và quyền hạn giữa hội đồng quản trị và tổng giám đốc điều hành. Nhiều khi 2 bên kêu gây khó cho nhau, tổng giám đốc thì phàn nàn cái gì cũng phải báo cáo, hội đồng quản trị lại kêu không có thực quyền.
Nguy hiểm nhất là hiện không có những quy định cụ thể trách nhiệm đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước. Trên danh nghĩa, hội đồng quản trị đại diện cho nhà nước nắm giữ tài sản trong tổng công ty nhưng thực chất tài sản đó là của người dân đóng thuế đưa vào. Không phải tiền của bất cứ ai, không quy định cụ thể ai phải chịu trách nhiệm chính nên dân gian vẫn nói đó là "của chùa".
Hội đồng quản trị được Nhà nước bổ nhiệm nhưng nhiều nơi họ không phải là những người thông thạo nghiệp vụ chuyên môn, do đó khó có khả năng giám sát bộ máy điều hành sử dụng vốn.
- Trong cuộc họp báo, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vietnam Airlines nói quyết định mua động cơ của họ đã được Chính phủ bật đèn xanh. Như vậy Chính phủ cũng phải chịu trách nhiệm?
- VNA đẩy trách nhiệm lên trên nhưng ở địa vị kinh doanh anh phải chịu trách nhiệm đến cùng vì liệu báo cáo của anh có trung thực hay không. Lẽ ra khi xin ý kiến, anh phải đưa ra nhiều phương án khác nhau, chẳng hạn mua động cơ này được mất ra sao, phân tích cho được hiệu quả của quyết định đó để Chính phủ xem xét so sánh lựa chọn.
Cần xét thêm một vấn đề nữa là vào năm 2001, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, triển vọng buôn bán hai nước nhìn thấy rõ, chắc chắn một vài năm tới VNA sẽ phải bay vào Mỹ chứ không thể để họ độc tôn vào VN và phải dùng máy bay có động cơ tầm xa.
Không thể tưởng tượng được vào năm 2001-2003 mà lại chỉ xác định VN chỉ hoạt động quanh quẩn trong khu vực để mua động cơ tầm trung lắp cho máy bay tầm xa. Nếu anh không tính toán nổi thì không đủ tầm là tổng công ty lớn.
- Các tổng công ty đều có cơ quan chủ quản là cục, bộ. Những quyết định dẫn tới thất thoát nghiêm trọng như vậy không bị thổi còi, điều này cho thấy những yếu kém nào, thưa bà?
- Cơ quan chủ quản của các tổng công ty hiện không đủ tầm vượt lên về mặt chiến lược để chỉ đạo. Ở tầm quản lý vĩ mô, không thể nhìn bức tranh trước mắt mà phải nhìn 5-10 năm tới, đơn cử như trường hợp mua động cơ của VNA. Tuy vậy, có một thực tế là trong những lĩnh vực độc quyền thường chỉ có 1-2 đơn vị hoạt động, hàng không chỉ có VNA, thị phần của Pacific Airlines không đáng kể, viễn thông thì 95% thị phần thuộc về VNPT. Đơn vị nhà nước đó chỉ đạo chiến lược nhưng lại chỉ nghe được tiếng nói của một đơn vị, chỉ chủ quản với một tổng công ty thì dễ mất đi cái nhìn tỉnh táo.
- Bà nghĩ sao khi trước những scandal, các tổng giám đốc thường chỉ chịu trách nhiệm rất mờ nhạt?
- Ở nước ngoài, tổng giám đốc được thuê nên người ta kén người giỏi, giám sát tới nơi tới chốn. Khi có tiêu cực nếu họ không tự đứng ra từ chức thì hội đồng quản trị cũng sa thải. Ở VN, tổng giám đốc được Nhà nước chỉ định không rõ là người làm thuê hay công chức, thành viên hội đồng quản trị cũng được Nhà nước bổ nhiệm nên hai anh chẳng ai chịu nghe ai. Quyết định kinh doanh do mình đề ra lại hất ngược trách nhiệm lên trên để bào chữa.
- Các tổng công ty cần một cuộc "đại phẫu". Vậy theo bà phải bắt đầu từ đâu?
- Nhà nước không thể đảm nhận chức trách hội đồng quản trị của mấy nghìn doanh nghiệp nhà nước. Hiện vẫn còn hơn 4.000 doanh nghiệp trải gần hết các lĩnh vực kinh doanh từ điện, viễn thông đường sắt, hàng không đến những lĩnh vực không cần Nhà nước chi phối. Ngay các địa phương cũng có tổng công ty 90, 91. Mỗi bộ quản lý vài ba trăm doanh nghiệp thì lấy đâu người tài để bổ nhiệm vào các hội đồng quản trị. Vì thế phải thu gọn doanh nghiệp nhà nước, nắm giữ ít sẽ quản chặt hơn.
Thay đổi cơ chế quản trị một cách rạch ròi bằng công cụ chứ không chỉ mô hình. Hiện VN mới chỉ loay hoay tìm mô hình như mẹ con hay tập đoàn, chưa có thử nghiệm mà đã mở rộng khá nhanh. Từ tổng công ty thành tập đoàn, một ngành chưa quản lý tốt thì đa ngành làm sao tốt được. Đơn cử như Tổng công ty điện lực, đang kêu thiếu vốn nhưng lại đầu tư mạnh cho viễn thông, dù anh có giải trình không lấy vốn từ điện người dân cũng khó tin. Nếu anh có hạ tầng đường trục sao không liên doanh hoặc cho người ta thuê mà cứ phải tự làm trong khi chưa chắc làm đã giỏi.
Ngoài ra cũng cần cải tiến cơ chế trách nhiệm. Ở một tổng công ty, thì cơ quan nào của nhà nước chịu trách nhiệm đến cùng, ở bộ thì vụ nào cục nào chứ chia ra mấy bộ rút cục không ai chịu cả.
Ông Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu kinh tế quản lý trung ương): Ở các doanh nghiệp nhà nước, tồn tại rất nhiều tầng nấc người đại diện trong khi ông chủ thì lại rất mơ hồ. Do đó, cơ chế giám sát và đánh giá của ông chủ thực sự rất yếu. Vụ VNA, khi để xảy ra một loạt tiêu cực như thời gian qua, người đại diện cho doanh nghiệp phải lập tức từ chức chứ không phải chỉ là nhận trách nhiệm hoặc đền bù là xong. Ở các nước khác, mỗi khi để xảy ra sai phạm, người lãnh đạo phải từ chức để giữ cho uy tín của công ty mình và giữ lòng tin đối với giới đầu tư. Trong trường hợp ngược lại, nhà đầu tư sẽ tháo chạy, không còn tin tưởng vào cổ phiếu của công ty đó nữa và công ty này sẽ rơi vào tình trạng phá sản. |
Phong Lan - Hà Vy thực hiện