Cuộc chiến tại Iraq có thể xảy ra bất cứ lúc nào. |
Hiện nay, theo chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên Hợp Quốc, Iraq chỉ được phép khai thác 2,5 triệu thùng dầu/ngày, trong khi năng lực của họ có thể đạt tới 6 triệu thùng. Các chuyên gia của Ngân hàng Goldman Sachs nhận định rằng, nếu chiến tranh xảy ra, dù trong bất cứ trường hợp nào, Iraq cũng không thể phục hồi mức cung dầu như trước. Nước này khó mà nhanh chóng trở lại với cuộc sống bình thường, và đói nghèo, bệnh tật là hiểm họa có thể nhìn thấy trước.
Tương tự Iraq, kinh tế Trung Đông cũng chỉ trông chờ vào dầu mỏ. Chỉ riêng Ai Cập, hằng năm có thể thu hút 4 tỷ USD từ khách tham quan kim tự tháp, tức khoảng 1/9 GDP. Thất thoát khoản thu này, cùng với tác động của cuộc xung đột đối với giao thông trên kênh đào Suez lên tình hình đầu tư nước ngoài, và kiều hối có thể khiến Ai Cập trở thành nạn nhân lớn nhất của Iraq nếu chiến tranh nổ ra. Các chuyên gia dự báo, Jordan sẽ thiệt hại 900 triệu USD, trong khi với Ảrập Xêút con số này phải hàng tỷ. Hiệp hội ngân hàng Ảrập dự đoán, thất thoát trong ngành ngân hàng sẽ là 60 tỷ USD. Chiến tranh có thể tác động đến môi trường đầu tư của khu vực bởi các doanh nhân nước ngoài sẽ bị ngăn cản không chỉ bằng cuộc chiến mà còn bởi làn sóng bài ngoại đầy bạo lực. Sự sút giảm có thể tác động đến những nước được xem là có môi trường đầu tư hấp dẫn như Israel, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran...
Trước bối cảnh như vậy, các quốc gia châu Á cũng đang tích cực đánh giá những rủi ro mà nền kinh tế phải đối mặt. Nếu chiến tranh kéo dài từ 3 đến 6 tháng, thiệt hại sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng GDP của từng nước. Hiện tại, ngoài Trung Quốc, nhập khẩu dầu của các quốc gia khác là khá lớn, ví dụ như Nhật Bản chiếm tới 15% GDP; Hàn Quốc 5,5% GDP; Thái Lan và Philippines là 5% GDP...
Ngay đối với Mỹ, gánh nặng chiến tranh cũng không nhỏ. Chi phí cho một cuộc chiến thường được chia làm ba loại. Thứ nhất là các chi phí quân sự trực tiếp, cụ thể như chiến tranh Triều Tiên năm 1950-1953 là 335,8 tỷ USD, chiếm 15% GDP; chiến tranh Vùng Vịnh năm 1990-1991 là 76,1 tỷ USD, chiếm 1% GDP (số liệu tính theo giá năm 2002 và GDP vào thời điểm chiến tranh). Nếu cuộc chiến sắp tới xảy ra trong thời gian ngắn thì theo dự tính của Văn phòng Ngân sách Quốc hội và Ủy ban Ngân sách Nhà trắng, tổng chi phí quân sự vào khoảng 50 tỷ USD, bằng 0,5% GDP. Thứ hai là những chí phi gián tiếp, bao gồm chi phí giữ gìn hòa bình, hỗ trợ nhân đạo và tái thiết có thể dao động từ 100 tỷ đến 600 tỷ USD. Cuối cùng là những chi phí vĩ mô bắt nguồn từ việc sử dụng các nguồn lực. Ước tính, tổng chi phí cho cuộc chiến lần này tối thiểu là 100 tỷ USD và tối đa 1.900 tỷ USD được phân bổ trong vòng 10 năm tới, như vậy bình quân hàng năm, nó ngốn 2% GDP của Mỹ.
Trên bình diện kinh tế toàn cầu, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cảnh báo, nguy cơ thiếu hụt nguồn cung dầu thô trên thị trường nếu Iraq ngừng xuất khẩu. Trong 12 tháng tới, giá dầu trung bình sẽ không thấp hơn 27 USD/thùng. Theo tính toán của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nếu giá dầu tăng 10 USD/thùng và duy trì trong 1 năm thì sẽ làm giảm GDP toàn cầu khoảng 0,6% năm sau đó.
Nhìn lại 3 thập kỷ qua, thế giới đã trải qua 4 cú sốc dầu lửa: năm 1973, sau khi OPEC thực hiện cấm vận; năm 1979; năm 1990 và năm 1999-2000, OPEC giảm sản lượng. Thống kê cho thấy, mỗi lần giá dầu thường tăng gấp hơn 3 lần, góp phần đẩy nền kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái sâu hơn. Giá dầu cao tác động đến nền kinh tế theo 2 cách. Một là, tăng gánh nặng chi phí doanh nghiệp và kéo theo là tăng giá thành sản phẩm. Hai là, giảm bớt nguồn thu của các nước nhập khẩu, buộc các nước này phải hạn chế chi tiêu. Ngoài ra, việc tăng giá dầu còn tạo ra tâm lý hoang mang, xáo trộn trên thị trường chứng khoán, thay đổi trong chính sách tài chính tiền tệ của từng quốc gia. Xét về mức độ phụ thuộc của các nước vào nguồn dầu của vùng Vịnh, việc nền kinh tế phải chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc chiến tại Iraq là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi.
Phong Lan