Trong chia sẻ bằng video gửi đến báo chí mới đây, ông Don Lam - CEO VinaCapital nhận định, Việt Nam đang sở hữu nhiều lợi thế cạnh tranh đáng kể để trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Một trong số đó là triển vọng thu hút FDI, nhờ thỏa mãn tất cả tiêu chuẩn để trở thành điểm đến đầu tư tiềm năng sau dịch.
Thời gian qua, Covid-19 đã làm bộc lộ những điểm yếu trong các chuỗi cung ứng. WTO dự đoán dòng vốn FDI toàn cầu sẽ sụt giảm 30% sau đại dịch. Tuy nhiên, đại diện VinaCapital dự báo xu hướng lạc quan. "Chúng tôi tin nguồn vốn FDI vào Việt Nam sẽ không bị ảnh hưởng từ xu hướng này mà thậm chí sẽ còn tăng lên", ông Don Lam nói.
Theo ông Don Lam, có hai yếu tố chính. Thứ nhất, hầu hết doanh nghiệp đều đang muốn giảm chi phí và đa dạng hóa sản xuất, tránh phụ thuộc hẳn vào Trung Quốc. Vấn đề này cấp thiết hơn khi chi phí lao động ngày một tăng cao đi cùng với các bất ổn về kinh tế do đại dịch.
Do áp lực về tỷ suất lợi nhuận cũng như giảm thiểu chi phí, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tìm đến Việt Nam như một điểm đến tiềm năng cho việc đặt các cơ sở sản xuất trong tương lai. Ngoài ra, các công ty đa quốc gia đang chịu áp lực phụ thuộc vào sản xuất tại Trung Quốc. Những áp lực này là cơ hội cho Việt Nam.
"Việt Nam luôn có lợi thế về mặt lao động đối với các nhà đầu tư như chất lượng lao động cao trong khi chi phí thấp, vị trí địa lý gần với chuỗi cung ứng tại Trung Quốc và phần còn lại của châu Á", CEO VinaCapital nhận định.
Thứ hai, việc kiểm soát dịch bệnh thành công và thị trường bản địa tiềm năng cũng là yếu tố củng cố niềm tin các nhà đầu tư sẽ tìm đến Việt Nam. Tạp chí The Economist cho rằng doanh nghiệp nước ngoài sẽ lưu ý tới cách thức mà các quốc gia kiểm soát dịch bệnh như một yếu tố trong việc cân nhắc vị trí nhà máy sản xuất của họ trong tương lai.
Hiện nay, các công ty nước ngoài, các nhà quản lý chuỗi cung ứng toàn cầu sử dụng bộ tiêu chí EPIC (Global Supply Chain Readliness Index) để phân tích các điểm mạnh, yếu, cơ hội và nguy cơ của các khu vực/quốc gia khác nhau trên thế giới. Việc phân tích này thông qua đánh giá các yếu tố riêng lẻ liên quan tới kinh tế, chính trị, cơ sở hạ tầng và năng lực.
EPIC gần đây đánh giá Việt Nam cao hơn Indonesia, Phillipines và Thái Lan nhưng thấp hơn Malaysia. Đánh giá này không chú trọng vào mức lương thấp mà nhấn mạnh vào tầm quan trọng của quy mô và sức hấp dẫn của thị trường. Theo đó, Việt Nam hấp dẫn nhờ dân số gần 100 triệu người và tầng lớp trung lưu gia tăng.
Ví dụ cho làn sóng đầu tư chuyển dịch gần đây là Apple và một số nhà cung ứng đối tác như GoerTek và Foxconn đã có nhiều động thái trong vấn đề sản xuất nhiều hàng hóa hơn từ Việt Nam. Ngoài ra, Apple cũng bắt đầu tìm kiếm nhân sự cho một số vị trí tại Việt Nam. Trước đó, Samsung đã dịch chuyển phần nhiều hàng sản xuất sang Việt Nam. Panasonic cũng thông báo chuyển việc sản xuất một số đồ gia dụng từ Thái Lan qua Việt Nam.
"Sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp khác cũng muốn tham gia vào làn sóng chuyển đổi này để có thể khai thác được tiềm năng của Việt Nam", ông Don Lam dự báo.
Nghiên cứu mới đây mang tên "The Next Wave of FDI to Vietnam is Coming" (Tạm dịch: Làn sóng đầu tư FDI mới vào Việt Nam đang đến) của nhóm chuyên gia VinaCapital cũng nhận định, động lực từ làn sóng đầu tư hậu Covid-19 vào Việt Nam có nhiều khác biệt so với trước.
Cụ thể, làn sóng đầu tiên của FDI vào Việt Nam chủ yếu được thúc đẩy bởi kỹ năng tốt và mức lương thấp của lao động Việt Nam, cũng như vị trí địa lý thuận lợi trong chuỗi cung ứng may mặc, đồ nội thất, điện tử...ở châu Á.
Trong khi đó, làn sóng FDI lần này thúc đẩy bởi tái bố trí sản xuất khỏi Trung Quốc. Theo một số chuyên gia có trụ sở tại Trung Quốc tư vấn cho các nhà đầu tư FDI ở châu Á, khoảng 20% cơ sở sản xuất của Trung Quốc có thể sẽ tái định vị ra khỏi đất nước trong vòng 5-10 năm tới.
Cả các công ty đa quốc gia và Trung Quốc sẽ tìm cách lập nhà máy ở Đông Nam Á. Trước đại dịch và chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, các nhà máy dời đi do chi phí lương cho công nhân Trung Quốc cao hơn Việt Nam, Thái Lan, Mexico và một số quốc gia khác. "Cuộc chiến thương mại đã đẩy nhanh xu hướng này, nhưng cuộc khủng hoảng Covid-19 trở thành động lực mạnh mẽ hơn nhiều cho các công ty di dời các nhà máy ra khỏi Trung Quốc", nhóm chuyên gia nhận định.
Nguy cơ toàn cầu hóa đi lùi, hay "Làm cho nước Mỹ (thậm chí là châu Âu) vĩ đại trở lại" cũng không có nguy cơ làm chậm dòng vốn FDI vào Việt Nam. Các công ty Mỹ không thể hấp thụ một địa điểm tái sản xuất quy mô lớn từ Trung Quốc sang Mỹ mà không làm tăng đáng kể chi phí sản xuất.
Thực tế, đóng góp của khu vực sản xuất vào GDP Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 70 năm. Lý do là không có đủ công nhân lành nghề để mở rộng quy mô sản xuất. Cùng với đó, các công ty Mỹ đã giảm chi tiêu vốn và chuộng mua lại cổ phiếu hơn trong 10 năm qua.
Ở châu Âu, nhân khẩu học kém và luật lao động quá cứng nhắc làm hạn chế khả năng gia tăng sản xuất. Tự động hóa và Cách mạng 4.0 được xem là "thuốc giải" cho vấn đề này về lý thuyết. Tuy nhiên, như Kearney đã chỉ ra trong một báo cáo gần đây, chi phí để tự động hóa các công việc sản xuất đơn giản, cộng với chi phí thuê người vận hành máy móc chuyên dụng cao đến mức ngay cả sau khi tự động hóa, chi phí sản xuất trong nước ở châu Âu vẫn cao hơn so với sản xuất tại Mexico hoặc châu Á.
Tỷ suất lợi nhuận của các công ty Mỹ đã bị thu hẹp trong những năm gần đây. Vì vậy, các công ty này sẽ không dại dột chọn những cách khiến họ tăng chi phí, bất chấp lời kêu gọi "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại".
Hơn nữa, bộ phận thu mua của các công ty đa quốc gia là một trong những bộ phận đầu tiên mà họ tìm cách cắt giảm chi phí khi tỷ suất lợi nhuận giảm. Những bộ phận này đã chịu áp lực từ năm 2016 để cắt giảm chi phí bằng các biện pháp như tăng mua hàng tập trung.
"Chúng tôi dự báo các nhà quản lý cấp cao - những người đã quyết định tăng mua hàng tập trung nhằm cắt giảm chi phí, giờ cũng yêu cầu chuyển sản xuất đến những nơi như Việt Nam. Điều này nhằm cắt giảm chi phí và giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong tương lai gần", nhóm chuyên gia nhận định.
Viễn Thông