Tại Hàn Quốc, biểu giá điện bán lẻ sinh hoạt được chia theo 3 bậc thang và giá theo mùa. Mùa thấp điểm được tính là giai đoạn 1/1-30/6 và 1/9-31/12. Mùa cao điểm 1/7 - 31/8. Ngoài ra, người dân còn phải trả phí cơ bản (tương tự phí thuê bao - hộ gia đình tháng đó có dùng hay không thì vẫn mất phí này) ứng với mỗi bậc thang trong cơ cấu biểu giá.
Biểu giá điện tại Hàn Quốc mùa cao điểm (1/7-31/8)
Mức sử dụng điện (kWh) | Phí cơ bản (tháng) | Giá điện (kWh) | ||
won | Quy đổi VND | won | Quy đổi VND | |
0-300 | 910 | 19.000 | 93.3 | 1.922 |
301-450 | 1.600 | 33.000 | 187.9 | 3.871 |
451 trở lên | 7.300 | 150.400 | 280.6 | 5.780 |
Chẳng hạn, giá điện mùa cao điểm (1/7-3/8), biểu giá sẽ chia 3 bậc: bậc 1 (đến 300 kWh), giá 93,3 won/kWh, tương đương 1.922 đồng/kWh và phí cơ bản 910 won/tháng (19.000 đồng); bậc 2 (301-450 kWh) giá 187,9 won/kWh (3.871 đồng/kWh) và bậc 3 từ 450 kWh trở lên (khoảng 5.780 đồng mỗi kWh).
Ngoài giá, các hộ dùng điện còn phải trả một khoản phí cơ bản cố định hàng tháng ứng với từng bậc thang giá điện, dao động 19.000 - 150.400 đồng (tương đương 910 - 7.300 won/tháng).
Sang mùa thấp điểm, biểu giá vẫn chia theo 3 bậc thang nhưng mốc sử dụng mỗi bậc được điều chỉnh lại linh hoạt hơn. Bậc 1: đến 200 kWh, bậc 2 là 201-400 kWh và bậc 3 từ 401 kWh trở lên. Mức giá và phí cơ bản mỗi bậc giữ nguyên như mùa cao điểm.
Malaysia cũng là quốc gia áp dụng biểu giá bán lẻ bậc thang cho các hộ dùng điện sinh hoạt, với 6 bậc thang. Bậc 1 thấp nhất với khung sử dụng 1-200 kWh, giá 21,08 sen/kWh (tương đương 1.222 đồng/kWh); bậc 2 (201-300 kWh), bậc 3 (301 - 600 kWh); bậc 4 (601-900 kWh) và bậc 6 cao nhất với khách hàng dùng 901 kWh trở lên với mức giá 57,1 sen/kWh, khoảng 3.201 đồng một kWh. Các mức giá này chưa gồm thuế VAT.
Còn tại Hong Kong (Trung Quốc), theo biểu giá mới áp dụng từ tháng 1 năm nay, hộ gia đình sử dụng điện theo 7 bậc thang, nhưng giá mỗi bậc thay đổi so với trước đây. Khoảng cách giá giữa bậc thấp nhất và cao nhất gần 2 lần.
Bậc 1 từ 0-400 kWh, giá 85,5 cent HKS một kWh (tương đương 2.597 đồng một kWh), bậc 7 cao nhất cho mức sử dụng trên 4.200 kWh với giá 180 cent HKS một kWh, khoảng 5.467 đồng/kWh.
Ngoài ra, người dùng còn phải trả thêm chi phí nhiên liệu 30,8 cent/kWh (khoảng 940 đồng/kWh). Phí này được điều chỉnh hàng tháng nhằm đảm bảo sự chênh lệch giữa giá nhiên liệu sử dụng thực tế và dự báo.
Riêng hộ gia đình sử dụng dưới 400 kWh một tháng sẽ được giảm giá 15,2 - 17,2 cent HKS, tương đương 462-522 đồng một kWh. Việc giảm giá cho các hộ dùng dưới 400 kWh nhằm khuyến khích người dân sử dụng tiết kiệm năng lượng.
Một số quốc gia tính giá điện theo giá cố định (một giá), thay đổi 3-6 tháng một lần, hoặc cho phép người dân tự chọn nhà cung cấp điện và lựa các gói sử dụng điện theo nhu cầu. Điển hình cho 2 xu hướng này là tại Singapore và New Zealand - những nơi đã có thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.
Tại Singapore, giá điện được áp dụng một mức giá duy nhất và điều chỉnh linh hoạt 3 tháng một lần để phản ánh thay đổi của chi phí giá thành điện.
Hiện người dân Singapore phải trả 20,97 cent một kWh (khoảng 3.564 đồng/kWh), giá này đã gồm 7% thuế và trong khoảng thời gian tháng 7-9 năm nay. Mức giá này giảm 15% so với thời điểm 3 tháng trước đó.
Do đã có thị trường bán lẻ điện cạnh tranh nên tại New Zealand có khoảng 20 đơn vị cung cấp, phân phối điện tới các hộ gia đình, giá cả khá cạnh tranh nhau và thường chia theo khung giờ thấp điểm, cao điểm trong ngày hoặc chia theo các gói hộ dùng điện năng thấp hoặc tiêu chuẩn. Thông thường, hộ gia đình sử dụng dưới 8.000 kWh một năm được xếp vào nhóm "hộ dùng điện năng thấp". Giá điện thường bao gồm giá tính trên mỗi kWh cùng phí quản lý hàng ngày và chi phí khác.
Mức giá giữa các nhà cung cấp khác nhau, song dao động 0,24 - 0,41 NZD, tương đương 3.673 - 6.275 đồng một kWh với khách hàng dùng gói "ít điện năng" và 0,26 - 0,43 NZD, khoảng 3.979 - 6.581 đồng một kWh.
Ngoài ra, các nhà cung cấp còn chia giá theo khung giờ thấp điểm, cao điểm hoặc khuyến mãi một giờ dùng điện miễn phí một giờ mỗi ngày... để khuyến khích người dùng điện.
Tương tự New Zealand, người dân Đức cũng được lựa chọn một trong số các nhà cung cấp năng lượng để ký hợp đồng dịch vụ. Công ty điện lực sẽ căn cứ vào số lượng người dùng điện tại hộ gia đình, diện tích, kiểu nhà... để ước sản lượng dùng trong một năm của hộ gia đình.
Sau năm đầu tiên, công ty điện lực sẽ kiểm tra số lượng điện năng thực tế dùng của hộ gia đình và quyết toán hoá đơn. Trường hợp hộ gia đình sử dụng ít hơn ước tính ban đầu thì được hoàn lại tiền hoặc ngược lại. Ngoài hoá đơn tiền điện, mỗi năm người dân Đức còn chi trả thêm một khoản phí là chi phí sưởi ấm vào mùa lạnh, chi phí cung cấp tiền điện...
Kỳ Duyên