Nhưng sau khi mua đất, ba năm qua, họ chưa thể hoàn thành thủ tục pháp lý về đất đai.
Doanh nhân này đặt câu hỏi: tại sao thủ tục hiện nay lại khó và phức tạp hơn cả những năm 2010. Ông cũng thẳng thắn nói rằng khi tiếp xúc, gặp gỡ thì lãnh đạo rất ủng hộ nhưng khi làm việc với các cấp thực thi bên dưới, họ gặp rất nhiều phiền phức.
Cũng về thủ tục, chủ một tập đoàn xây dựng và đầu tư trong lĩnh vực văn hóa du lịch phàn nàn, hiện tốc độ thi công 100 km đường cao tốc mất khoảng sáu tháng nhưng để hoàn thiện các thủ tục phải mất cỡ ba năm.
Tập đoàn tư nhân hàng đầu trong sản xuất nguyên liệu thì băn khoăn về mỏ quặng sắt thuộc hàng lớn nhất Việt Nam đang bị bỏ không lãng phí, trong khi ngành sản xuất thép đang nhập đến 95% nguồn quặng, tương đương 30 triệu tấn. Ông đề nghị Chính phủ nhanh chóng tổ chức đấu thầu để có thể khai thác ngay trong Quý 1. Doanh nghiệp có nguyên liệu, Nhà nước có nguồn thu, người dân có việc làm... lợi ích ai cũng thấy được.
Nhưng Bộ Công Thương giải thích, theo quy trình, chủ đầu tư cũ phải thực hiện thủ tục đóng cửa mỏ, hoàn thành nghĩa vụ tài chính rồi mới đến đấu thầu, cấp mới... Nói chung là phải đợi. Quy trình theo mô tả này khó có thể xong trong năm nay, nói gì đến Quý I như mong muốn của doanh nghiệp.
Biết bao cơ hội bị bỏ lỡ.
Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng cao, trên 8% ngay năm 2025 và 10% trở lên trong những năm tiếp theo. Đây không phải tham vọng nữa mà là mệnh lệnh nếu không muốn tụt hậu với thế giới.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra thể chế hiện nay đang là "điểm nghẽn của điểm nghẽn". Như vậy có thể thấy rõ một giải pháp ưu tiên và quan trọng để đạt mức tăng trưởng cao là cải cách thể chế mạnh mẽ, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cải cách thể chế để thúc đẩy tăng trưởng theo tôi ưu tiên đầu tiên là nhóm giải pháp khơi dòng vốn đầu tư vào nền kinh tế. Hiện tại quy trình đầu tư cả khu vực công lẫn tư nhân còn phức tạp về thủ tục, hiệu quả quản lý khiêm tốn nhưng rất tốn kém về nguồn lực xã hội và làm lỡ nhiều cơ hội. Nếu vốn đầu tư như dòng nước thì dòng chảy của nó đang gặp quá nhiều vật cản.
Nguyên nhân là thủ tục hành chính của Việt Nam trải qua nhiều bước và có sự tham gia của nhiều cơ quan, bộ ngành. Bộ ngành nào cũng quan trọng và có hệ thống quy định riêng. Một dự án đầu tư cỡ vừa có thể liên quan đến hàng chục luật khác nhau như quy hoạch, đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, phòng cháy... Chỉ cần một mắt xích trục trặc là cả dự án bị đình lại.
Theo báo cáo của 62/63 địa phương, hiện có đến 1.100 dự án đang gặp vướng mắc về thủ tục pháp lý, nằm chờ tháo gỡ. Một khoản vốn đầu tư khổng lồ, không ít hơn 100 nghìn tỷ đang tắc, chưa thể đưa vào vận hành.
Có những thủ tục lại có độ vênh lớn giữa nội dung văn bản và thực tế triển khai. Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có tham gia thực hiện một khảo sát về quy trình của dự án đầu tư có sử dụng đất tại một địa phương. Chúng tôi nhận ra, trong một thủ tục, quy trình trên giấy tờ chỉ yêu cầu một cuộc họp các bên để thống nhất dự án, nhưng thực tế, chủ đầu tư phải gõ cửa gần 10 cơ quan để xin sự đồng ý. Vì thế hầu hết quá trình thực hiện của 30 dự án được khảo sát đều dài hơn thời gian quy định. Mà thị trường năm này khác, năm sau rất khác, tháng này khác, tháng sau đã rất khác. Các chủ đầu tư liên tục phải loay hoay điều chỉnh kế hoạch, càng điều chỉnh càng đội chi phí.
Nhóm giải pháp thứ hai rất quan trọng là cần nhanh chóng thay đổi phương thức quản lý, chú trọng hiệu quả, triệt để chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, quản lý theo rủi ro; các giải pháp cần tính toán đủ chi phí tạo ra với nền kinh tế...
Nhiều phương thức quản lý đang tạo ra chi phí và gánh nặng quá lớn. Chẳng hạn hiện nay trong hệ thống thủ tục liên quan đến đầu tư có thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Điều này có thể hợp lý với đầu tư công. Nhưng quy trình được áp dụng cả với đầu tư tư nhân (có giới hạn về quy mô và một số ngành nghề). Một dự án đầu tư đã phải tuân thủ đầy đủ quy định về quy hoạch theo pháp luật quy hoạch, về đất đai theo pháp luật đất đai, về môi trường theo pháp luật về bảo vệ môi trường... vậy có cần thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư của chính quyền nữa hay không? Hay nó chỉ góp phần tạo ra thêm một hệ thống pháp luật về đầu tư rất dễ xung đột và chồng chéo với các luật khác.
Một thủ tục khác là doanh nghiệp dù tư nhân hay nhà nước muốn đầu tư ra nước ngoài phải được cấp phép, thông qua giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Trong chuỗi sản xuất toàn cầu hiện nay, doanh nghiệp chắc chắn phải tuân thủ các quy định về ngoại tệ, về phòng chống rửa tiền, đóng thuế đầy đủ... Tôi không tìm được lý do tại sao còn cần có thêm cơ quan nhà nước phê duyệt dự án? Họ sẽ căn cứ vào đâu, và nhà nước phê duyệt, doanh nghiệp lỗ thì nhà nước có chịu trách nhiệm không?
Hai thủ tục này đều nằm trong Luật Đầu tư - bộ luật theo tôi đã đến lúc thay đổi theo hướng thay vì quản lý đầu tư thì phải khuyến khích đầu tư triệt để.
Quản lý luôn tạo ra chi phí, điều mà rất ít cơ quan Nhà nước nhìn nhận ra. Nhiều quy định, tiêu chuẩn đưa ra để bảo vệ chất lượng, sản phẩm, bảo vệ người tiêu dùng, hiệu quả đạt được thì chưa thấy rõ nhưng đang tạo ra rất nhiều chi phí cho doanh nghiệp. Chẳng hạn, hiện nay các doanh nghiệp ngành thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi, phân bón... đang đau đầu với thủ tục công bố hợp quy.
Cũng như nhiều nước, Việt Nam giám sát chất lượng thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi, phân bón... thông qua điều kiện sản xuất, bằng giấy chứng nhận thực hành sản xuất tốt - GMP, và kiểm soát trước khi sản xuất, lưu thông (chẳng hạn giấy chứng nhận đăng ký lưu hành). Để đạt tiêu chuẩn GMP, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện rất khắt khe về địa điểm, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân sự, kho lưu trữ - bảo quản, nguyên liệu sản xuất.
Ngoài ra, các sản phẩm ở Việt Nam buộc phải thực hiện thêm thủ tục công bố hợp quy. Theo các doanh nghiệp thủ tục này rất hình thức, ít có ý nghĩa về quản lý, song lại tốn kém về chi phí và thời gian cho người sản xuất, kinh doanh.
Có doanh nghiệp thức ăn chăn nuôi giải thích với tôi: hợp quy hiểu nôm na là lấy một cái mẫu, gửi kiểm nghiệm và làm thủ tục công bố có phù hợp với tiêu chuẩn có sẵn hay không. Nhưng tùy mùa vụ, doanh nghiệp có thể sản xuất ngô, khoai, sắn... Lấy một mẫu ngô ở một thời điểm cụ thể khó có thể đánh giá toàn bộ chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Vấn đề là cả địa điểm, quy trình, máy móc nhà xưởng, nhân lực của nhà sản xuất đã phải tuân thủ một hệ thống tiêu chuẩn cao hơn, ngặt nghèo hơn và đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Việc lấy mẫu đơn sơ như vậy gây phát sinh chi phí, thời gian cho cả người sản xuất và cơ quan quản lý.
Doanh nghiệp này cho biết thêm: một sản phẩm, hàng hóa để lấy mẫu thử nghiệm công bố hợp quy, thời hạn ba năm, có mức chi phí dao động 3-5 triệu đồng. Một đơn vị quy mô vừa, 200-300 loại sản phẩm, sẽ tốn kém 800 triệu đến 1,2 tỷ đồng. Thử tính trên phạm vi quốc gia với hàng chục, hàng trăm nghìn doanh nghiệp thì chi phí sẽ như thế nào? Và suy cho cùng, các chi phí này cũng tính vào giá thành sản phẩm tới người tiêu dùng, làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều ví dụ về việc quy định, thủ tục hành chính đang cản trở và gây khó cho người kinh doanh.
Mục tiêu tăng trưởng cao đã được đưa vào Nghị quyết của Quốc hội, vấn đề còn lại chỉ là bàn giải pháp thực hiện. Tổng Bí thư yêu cầu cắt giảm 30% điều kiện kinh doanh, giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, Việt Nam phải lọt vào nhóm ba nước có môi trường kinh doanh thuận lợi nhất ASEAN. Bộ Chính trị vừa giao Chính phủ soạn thảo một Nghị quyết của Đảng về phát triển doanh nghiệp tư nhân với tinh thần đột phá và thuận lợi nhất.
Tôi có một niềm tin về sự thay đổi, dọn dẹp và khơi thông dòng chảy để tạo ra dòng thác về tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Đậu Anh Tuấn