Theo dự thảo đề án A0 tách khỏi EVN để lập công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước, Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện quốc gia (NSMO) có số vốn 776 tỷ đồng. Đây là mức vốn điều lệ dự kiến khi chuyển nguyên trạng các tài sản, gồm 630 tỷ đồng vốn chủ sở hữu của A0 tính tới cuối tháng 6 và 146 tỷ đồng tại các dự án chưa quyết toán và đang đầu tư dở dang năm 2023.
Góp ý đề án này, Bộ Công Thương bày tỏ lo ngại sẽ thiếu vốn cho NSMO hoạt động liên tục với số vốn điều lệ trên, bởi chưa xét tới khả năng đảm bảo hạ tầng nhất là khi đơn vị này triển khai loạt dự án trọng điểm, cấp bách liên quan tới điều độ, thị trường điện quốc gia.
Cụ thể, Bộ này cho hay, kế hoạch sản xuất kinh doanh 5 năm của NSMO gồm 26 hạng mục, tổng mức đầu tư hơn 5.165 tỷ đồng cho 9 dự án cấp bách. Nhưng khả năng tiếp cận vốn của A0 khi rời EVN có thể khó khăn, do đó nếu không đảm bảo tài chính sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, với 17 dự án đầu tư khác với tổng mức đầu tư gần 1.760 tỷ đồng, Bộ Công Thương cho rằng, cũng cần bố trí 30% vốn đối ứng tại thời điểm thành lập, khoảng 527 tỷ đồng để NSMO thuận lợi huy động vốn cho giai đoạn tiếp theo.
"Thời gian đầu công ty mới lập quy mô nhỏ nên khả năng cân đối, huy động vốn khó đáp ứng nhu cầu đầu tư hạ tầng, có thể cân bằng tài chính và không thu xếp được vốn cho các dự án. Việc này sẽ ảnh hưởng tới hạ tầng khi một số hệ thống chính của A0 đã vận hành 10-15 năm, cần thay mới", Bộ Công Thương nêu quan điểm.
Vì thế, Bộ Công Thương đề nghị mức vốn điều lệ cần cho A0 khi tách khỏi EVN là 4.296 tỷ đồng, để bảo đảm doanh nghiệp hoạt động ổn định, không bị gián đoạn. Số này gồm 776 tỷ đồng tài sản nguyên trạng chuyển từ EVN, 2.993 tỷ vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm và 527 tỷ đồng vốn đối ứng cho 17 dự án khác.
Về vốn lưu động của NSMO, Bộ Công Thương cho biết, chi phí hoạt động thường xuyên của A0 năm nay là hơn 333 tỷ đồng, nhưng nếu tính đủ chi phí thực tế thì đơn vị này cần gần 452 tỷ đồng một năm. Khoản này gồm 40% chi cho tiền lương người lao động; 38% là chi phí các khoản dịch vụ mua ngoài, còn lại chi phí vật liệu và sửa chữa.
Bộ này ước tính tổng chi phí hoạt động thường xuyên của NSMO 5 năm tới là 3.343 tỷ đồng, tương đương gần 669 tỷ đồng mỗi năm, gồm tiền lương bảo hiểm, thuê trụ sở, sửa chữa, bảo hành. Do đó, để có nguồn và duy trì hoạt động của doanh nghiệp này vẫn cần tạm ứng tiền từ EVN.
Bộ Công Thương cũng đề nghị cơ quan thẩm định đề án - Bộ Kế hoạch & Đầu tư thẩm định bổ sung phương án sử dụng các cơ sở nhà, đất, trụ sở của NSMO khi thành lập, trong đó có phương án xử lý cụ thể về quyền sử dụng, bàn giao các cơ sở nhà, đất.
Trong khi đó, theo đề án tách A0, EVN đang cấp vốn vay hơn 2,9 triệu USD cho A0 qua hai khoản vay thuộc hiệp định vay của Ngân hàng Thế giới. Đây là các khoản cho các dự án trung tâm điều độ hệ thống điện mới và hạ tầng thông tin cho thị trường phát điện cạnh tranh. Các khoản vay này không chịu rủi ro tín dụng và tài sản hình thành đang thế chấp cho các cơ quan cho vay lại được Bộ Tài chính ủy quyền. Theo quy định về quản lý nợ công, EVN có thể chuyển giao nghĩa vụ nợ cho A0 khi có sự chấp thuận của Thủ tướng.
Phương án xử lý tài chính, các khoản vay được Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nêu ra, là NSMO sẽ trực tiếp ký hợp đồng vay lại, hợp đồng thế chấp tài sản và trả nợ cho các cơ quan cho vay lại. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển giao, hoàn thiện các thủ tục, EVN tiếp tục trả nợ các khoản vay trên và được NSMO hoàn lại sau đó.
Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia được thành lập năm 1994, vận hành các khâu truyền tải, phân phối điện, để đảm bảo hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định. Đơn vị này cũng chịu trách nhiệm vận hành các nhà máy điện; khai thác, điều tiết hồ chứa; xử lý sự cố hệ thống điện 500 kV.
A0 là đơn vị hạch toán phụ thuộc của EVN. Việc tách A0 khỏi EVN đã được nêu trong Quyết định tái cơ cấu ngành điện năm 2017 nhưng chưa được thực hiện. Việc chuyển đơn vị này về Bộ Công Thương được thực hiện theo yêu cầu của Thủ tướng, nhằm tạo điều kiện vận hành cơ chế thị trường trong mối quan hệ giữa đơn vị điều độ hệ thống điện quốc gia với đơn vị phát điện, truyền tải và phân phối theo Luật Điện lực.