Luật sư tư vấn
Theo khoản 1 Điều 45 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015, người lao động bị tai nạn trong các trường hợp sau sẽ được coi là bị tai nạn lao động:
1. Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật Lao động và nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh.
2. Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động hoặc người được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản trực tiếp quản lý lao động.
3. Trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý.
Như vậy, căn cứ quy định nêu trên, người lao động làm việc tại nhà mà bị tai nạn liên quan công việc (ví dụ, máy may bị trục trặc làm gãy tay, đi vệ sinh trong thời gian làm việc không may bí té gãy chân...) vẫn được coi là bị tai nạn lao động.
Căn cứ khoản 2 Điều 45, nếu người lao động bị tai nạn làm suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn sẽ được hưởng chế độ tai nạn lao động.
- Trợ cấp một lần (theo Điều 48) áp dụng với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30%.
Người lao động suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng năm lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở.
Ngoài mức trợ cấp này, họ còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng vào quỹ được tính thêm 0,3 tháng tiền lương đóng vào quỹ của tháng liền kề trước tháng bị tai nạn lao động. Ai bị tai nạn lao động ngay trong tháng đầu tham gia đóng vào quỹ hoặc có thời gian tham gia gián đoạn sau đó trở lại làm việc thì tiền lương làm căn cứ tính khoản trợ cấp này là tiền lương của chính tháng đó.
- Trợ cấp hằng tháng (theo Điều 49) áp dụng với người bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên.
Người lao động suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương cơ sở.
Ngoài mức trợ cấp này, người lao động hằng tháng còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng vào quỹ được tính thêm 0,3% mức tiền lương đóng vào quỹ của tháng liền kề trước tháng bị tai nạn lao động.
Trường hợp bị tai nạn lao động ngay trong tháng đầu tham gia đóng vào quỹ hoặc có thời gian tham gia gián đoạn sau đó trở lại làm việc thì tiền lương làm căn cứ tính khoản trợ cấp này là tiền lương của chính tháng đó.
Người bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị bệnh tâm thần thì ngoài mức hưởng này, hằng tháng còn được hưởng trợ cấp phục vụ bằng mức lương cơ sở (theo Điều 52).
- Thân nhân người lao động được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 lần mức lương cơ sở tại tháng người lao động bị tai nạn lao động chết và được hưởng chế độ tử tuất theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 (theo Điều 53).
Đồng thời, người lao động bị tai nạn còn được hưởng các chính sách khác, như: dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật (theo Điều 54); hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị tai nạn lao động khi trở lại làm việc (theo Điều 55) ...
Người sử dụng lao động có trách nhiệm thanh toán chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định cho người bị tai nạn lao động; trả đủ tiền lương cho người lao động bị tai nạn lao động phải nghỉ việc trong thời gian điều trị, phục hồi chức năng lao động và các trách nhiệm khác theo Điều 38.
Luật sư Phạm Thanh Hữu
Đoàn luật sư TP HCM