Thu hẹp khoảng cách công nghệ [3]
1. Tìm cơ hội phát triển
Mỗi nước nghèo có con đường phát triển riêng của mình. Trung Quốc, Đài Loan hoặc Hàn Quốc đi lên bằng lợi thế lao động rẻ và xuất khẩu hàng hoá giá thành hạ trước khi nghĩ đến đầu tư vào công nghệ cao. Tuy nhiên, lợi thế này sớm muộn rồi cũng mất, do những nước nghèo khác cùng cạnh tranh giá thành lao động, do các công ty đa quốc gia (MNE) tăng cường đầu tư ra nước ngoài, khai thác lao động rẻ để sản xuất và xuất khẩu trở lại chính quốc.
Hơn nữa, sản xuất hàng hoá ngày nay không thể dựa vào các công nghệ đơn giản, mà phải có kiến thức và công nghệ cùng kết hợp với nhân công rẻ. Bước vào kỷ nguyên thông tin, mọi thứ - từ hàng hoá đến vũ khí - đều trở nên "tinh khôn" hơn nhờ CNTT, cụ thể là phần mềm.
Vì thế nhu cầu lao động rẻ có thể bớt, nhưng nhu cầu tin học hoá, tối ưu hoá ngày càng tăng. Không nắm được tầm quan trọng của nền kinh tế tri thức, các nước nghèo sẽ không thể đi lên chỉ bằng xuất khẩu tài nguyên hay nhân công.
Ấn Độ nhận thức được điều này vào năm 1985, khi chính phủ quyết định hỗ trợ các doanh nghiệp phần mềm tư nhân. Trước đó, chính phủ chủ trương tự lực sản xuất mọi thứ, kể cả máy tính và mạch điện tử. Tuy nhiên các chương trình phát triển đều thất bại, do không thể cạnh tranh với những sản phẩm nước ngoài. Đầu thập kỷ 80, khi công nghiệp phần mềm bắt đầu phát triển, chính phủ nhận thấy ngay đây là cơ hội để nắm bắt công nghệ của mình và áp dụng mọi biện pháp để thúc đẩy ngành công nghiệp này. Đó là: bãi bỏ các giấy phép liên quan đến công nghiệp phần mềm; cho phép nhập khẩu miễn thuế các sản phẩm phục vụ ngành công nghiệp này. Sau đó, chính phủ kích cầu thị trường công nghiệp phần mềm trong nước. Cuối cùng, khi doanh nghiệp phần mềm trong nước chứng tỏ được khả năng của mình, tự họ sẽ tiếp thị và xuất khấu gia công phần mềm cho nước ngoài.
2. Tìm động lực để phát triển
Để phối hợp hoạt động CNTT, Ấn Độ thành lập Bộ Điện tử, nay là Bộ CNTT, theo mô hình Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) Nhật Bản. Đến năm 1978, Bộ CNTT, thông qua hội đồng phát triển công nghệ (TDC), đề xuất 28 dự án nghiên cứu ứng dụng CNTT: quản lý sổ sách, giáo dục, thiết kế, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, y tế, phát triển nông thôn... Các dự án này sử dụng công nghệ nước ngoài và áp dụng chúng cho phù hợp với điều kiện của Ấn Độ. Một số ví dụ như chương trình CMC (1981) thành lập cơ sở dữ liệu đất đai trên toàn quốc, chương trình ORG (1990) lập kế hoạch phát triển nông nghiệp bằng máy tính, chương trình CLASS (1984) phổ cập kiến thức vi tính và trang bị máy tính cho các trường phổ thông, mạng thông tin quốc gia NICNET (1984)...
Để hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển (R&D) phần mềm, chính phủ không hỗ trợ toàn phần mà chỉ cung cấp 3/5 quỹ R&D cho các doanh nghiệp. Bộ CNTT bắt buộc một số công ty lớn phải bỏ ra ít nhất 2% doanh thu để đầu tư cho CNTT, nếu không sẽ bị rút giấy phép. Năm 1985, chính phủ quy định các công ty nước ngoài đầu tư sản xuất máy tính phải có cam kết đóng góp 2-5%doanh thu cho quỹ R&D cho CNTT. Từ năm 1986, chính phủ bắt đầu quan tâm đến việc đầu tư mạo hiểm (venture capital) và lập vườn ươm cho công ty phần mềm (incubation). Nhờ đó, các công ty nhỏ được chia sẻ rủi ro và dễ chấp nhận đầu tư R&D hơn. Tất cả chính sách này làm cho số tiền đầu tư R&D của cả 2 khu vực nhà nước và tư nhân tăng đáng kể.
Tuy vậy, các công ty ban đầu cũng không biết dùng tiền từ quỹ R&D vào việc gì. Phần lớn dùng tiền để "tháo tung và nghiên cứu" các phần mềm của nước ngoài (reverse engineering), sau đó "Ấn Độ hoá" những sản phẩm này. Qua một thời gian, họ đã thu nhập được khá nhiều kinh nghiệm. Sau đó, các công ty trực tiếp đặt hàng với các trường đại học mẫu lập trình viên mà họ cần trong tương lai. Đồng thời, họ tư vấn trường đại học và dạy nghề soạn thảo lại giáo trình CNTT cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, bỏ các phần lỗi thời, quá trừu tượng. Bên cạnh đó, họ cũng không ngừng học hỏi kinh nghiệm của người Ấn Độ ở châu Âu và Mỹ.
Theo số liệu của Brunner, khoảng 70% lãnh đạo các công ty phần mềm lớn ở Ấn Độ là Ấn kiều tốt nghiệp trường đại học Mỹ và có kinh nghiệm làm việc với nhiều hãng phần mềm Mỹ. Nhiều nhân viên của họ cũng tốt nghiệp ở nước ngoài, hoặc đã ra nước ngoài công tác. Các nhà sản xuất phần mềm Ấn Độ cũng tăng cường hợp tác nghiên cứu với doanh nghiệp nước ngoài, mặc dù bản thân nhiều công ty trong nước ít khi hợp tác với nhau.
Một bước tiến đáng kể trong CNTT Ấn Độ là việc bãi bỏ luật chuyển giao công nghệ (MRTP 1969) bấy lâu kìm hãm các công ty nước ngoài chuyển giao kiến thức cho Ấn Độ [4]. Năm 1986, nước này bãi bỏ mọi yêu cầu phải đăng ký hay phê duyệt hợp đồng chuyển giao công nghệ đối với 27 ngành công nghiệp ưu tiên, trong đó có công nghiệp phần mềm. Đạt được kết quả này cũng một phần nhờ công vận động của Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm (NASCOMM).
Một điều đáng lưu ý là trong khi các công ty nhà nước của Ấn Độ như ECIL được chính phủ đầu tư nhiều hơn, có thị phần lớn hơn ngày càng bị thu hẹp thị phần, thì nhiều công ty vừa và nhỏ (SME) lại kiếm được nhiều hợp đồng hơn. Nhờ năng động trong hợp tác nghiên cứu và được nhà nước hỗ trợ dự án, SME có khả năng thu hẹp khoảng cách về công nghệ giữa các doanh nghiệp trong nước và công ty nước ngoài. Tuy nhiên, điều này không nói lên rằng vai trò của chính phủ là không cần thiết.
Qua những mô hình kinh tế lượng, Brunner cho thấy vai trò của chính phủ Ấn Độ rất quan trọng trong việc tạo tiền đề cho CNTT. Ban đầu, thị trường cho CNTT Ấn Độ hầu như không có, nạn ăn cắp bản quyền tràn lan, nhân lực và vốn thiếu. Chính phủ đã cải thiện hệ thống pháp luật, xoá bỏ các rào cản CNTT, bắt buộc doanh nghiệp trong nước mua sản phẩm CNTT của các công ty Ấn Độ sản xuất, đào tạo nhân lực, đề xuất nhiều dự án kích cầu. Chỉ trong vòng 2 năm, từ 1987 đến 1989, các biện pháp hỗ trợ CNTT của chính phủ đã có tác động rõ rệt: phong trào sản xuất phần mềm lan rộng, giá thành phần mềm hạ, trình độ tay nghề nhân viên phần mềm tăng.
Chính nhờ R&D, khéo léo tận dụng nhân lực của Ấn kiều và liên kết nghiêu cứu với nước ngoài mà nhiều công ty Ấn Độ đã thu hẹp được khoảng cách trình độ công nghệ với các công ty Âu Mỹ và đảm nhận được nhiều hợp đồng gia công với nước ngoài. Với nỗ lực của cả 2 phía, nhà nước và doanh nghiệp, Ấn Độ đã biến tiềm năng thành hiện thực, tìm được chỗ đứng cho mình trong một ngành công nghiệp quan trọng của thế kỷ 21.
Một thành công khác của CNTT Ấn Độ, không thể tính bằng đôla xuất khẩu phần mềm, là việc tăng năng suất lao động cho doanh nghiệp nội địa và các cơ quan nhà nước nhờ ứng dụng CNTT.
Lê Nết
[1] Closing the Technology Gap - Technology Change in India's Computer Industry. Sage Publication (1995).
[2] India Incorporated - Reflection on the Indian Electronic Industry. Vikas Publishing House (1995). Tên Bộ CNTT là dịch theo tên gọi hiện tại, trước đây là Bộ Điện tử Ấn Độ.
[3] Lược dịch từ Brunner (1995).
[4] MRTP áp dụng một loạt các hạn chế vô lý như giá chuyển giao công nghệ không quá 5% giá bán tịnh, và thời gian không quá 5 năm.