Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tên huý là Văn Đạt, sinh ra dưới thời vua Lê Thánh Tông - thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông hiệu Bạch Vân cư sĩ, biệt hiệu Tuyết Giang phu tử, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng).
Cha ông là Nguyễn Văn Định, nổi tiếng học giỏi. Mẹ là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan tiến sĩ thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều vua Lê Thánh Tông - người học rộng, giỏi tướng số.
Từ tuổi ấu thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được giáo dục cẩn thận, rèn luyện cả về thể lực và trí lực nên to khỏe, thông minh khác thường, chưa đến một tuổi đã nói sõi. Lên 4 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được mẹ dạy sách Kinh, thơ Nôm... Hầu hết nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của ông đều ghi nhận ảnh hưởng lớn từ bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông.
Theo Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ 19 (Nhà xuất bản Văn học, 2018), khi đến tuổi trưởng thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay), vốn nổi danh trong giới sĩ phu đương thời.
Vốn sáng dạ lại chăm chỉ học hành nên Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh chóng trở thành học trò xuất sắc của thầy. Sau này, khi Lương Đắc Bằng mất, ông đã giao con trai mình là Lương Hữu Khánh cho Nguyễn Bỉnh Khiêm nuôi dạy. Đến triều Mạc thay thế triều Lê, ông đi thi và đỗ trạng nguyên ngay trong lần đầu ứng thi. Ông từng được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi Trình Quốc Công nên dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tác gia văn học lớn của thế kỷ 16, để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ với nhiều chủ đề, mang tính đặc trưng của văn học thời đại.
Câu 2: Hai câu thơ sau nằm trong bài thơ nào của Nguyễn Bỉnh Khiêm?
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.