Khu đất số 2 đường Tôn Đức Thắng có diện tích hơn 1.200 m2, do UBND TP HCM cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quốc phòng cho Quân chủng Hải quân (QCHQ) năm 2003.
Đầu năm 2006, Nguyễn Văn Khanh (Giám đốc Công ty Hải Thành - thuộc Quân chủng Hải Quân) và Phạm Duy Tân (Giám đốc Công ty TNHH Cảnh Hưng) ký biên bản ghi nhớ hợp tác xây dựng khu cao ốc văn phòng. Công ty Hải Thành góp vốn bằng giá trị QSDĐ còn đối tác bỏ tiền thực hiện dự án. Quyết định này được Đô đốc Nguyễn Văn Hiến phê duyệt vào tháng 7 năm đó.
Hơn một tháng sau, ông Bùi Văn Nga (Giám đốc Công ty Hải Thành thay ông Khanh) và Phạm Duy Tân ký hợp đồng liên doanh thành lập Công ty TNHH liên doanh Cảnh Hưng Hải Thành vốn điều lệ 15 triệu USD. Trong đó, Công ty Hải Thành góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất 1,5 triệu USD (10%), Công ty Cảnh Hưng góp 13,5 triệu USD (90%).
Công ty Hải Thành sẽ được Cảnh Hưng trả một khoản thu nhập ổn định (không phụ thuộc vào lợi nhuận công ty liên doanh) là từ 55.000 đến 478.000 USD/năm, giá được điều chỉnh theo nhiều giai đoạn.
Ông Bùi Như Thiềm (Trưởng phòng kinh tế, Quân chủng Hải quân) và Đoàn Mạnh Thảo (Trưởng phòng tài chính, Quân chủng Hải quân) sau đó trình ông Hiến ký nhiều văn bản đề xuất chính quyền TP HCM và sở ngành cho phép Công ty Hải Thành được sử dụng khu đất này để thực hiện dự án.
Năm 2007, UBND TP HCM chấp thuận đề xuất và phê duyệt giá trị khu đất là hơn 187 tỷ đồng để Công ty Hải Thành nộp vào ngân sách khi làm dự án. Được các thuộc cấp tham mưu, ông Hiến tiếp tục ký công văn gửi chính quyền thành phố cho Công ty Hải Thành được ghi thu, ghi chi chuyển số tiền cho Quân chủng Hải quân do Tư lệnh Hải quân và Công ty Hải Thành khó khăn về kinh tế.
Năm 2010, ông Hiến ủy quyền cho Bùi Văn Nga ký hợp đồng liên doanh chuyển dự án cho Công ty Cảnh Hưng Hải Thành. Cuối năm đó, Phạm Duy Tân đại diện Công ty Cảnh Hưng Hải Thành đề nghị Bộ Tư lệnh cho chuyển sang công ty cổ phần.
Đầu năm 2011, được Thiềm và Thảo đảm bảo, Bùi Văn Nga đại diện Công ty Hải Thành ký lại thỏa thuận góp vốn 187 tỷ đồng (giá trị quyền sử dụng khu đất số 2 Tôn Đức Thắng) vào Công ty Cổ phần Cảnh Hưng Hải Thành. Khu đất được xây tòa nhà 27 tầng nổi, 4 tầng hầm, đã hoàn thiện một phần cho thuê làm văn phòng, còn lại đang lắp đặt nội thất chức năng cho thuê căn hộ. Tuy nhiên, Công ty Cảnh Hưng đã bán cổ phần cho các đối tác - tức là khu đất quốc phòng đã rơi vào tay tư nhân, theo cáo trạng của VKSND Quân sự Trung ương.
Theo hợp đồng liên doanh, công ty này trả cho Hải Thành hơn 17,6 tỷ đồng tính đến tháng 11/2019. Hiện, Công ty Hải Thành chưa nộp tiền quyền sử dụng đất về cho QCHQ.
Tương tự, khu đất số 9-11 Tôn Đức Thắng có diện tích hơn 2.000 m2 được Bộ Quốc phòng giao cho Công ty Hải Thành quản lý để làm nhà khách Hải quân khu vực phía Nam. Năm 2006, Bùi Văn Nga ký biên bản ghi nhớ với Công ty Mai Anh, thực hiện dự án xây cao ốc đa chức năng trong thời hạn 49 năm.
Tháng 3/2007, hai bên thành lập Công ty TNHH Mai Thành thực hiện dự án với vốn điều lệ 15 triệu USD. Công ty Hải Thành góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất là 1,5 triệu USD (10%), Công ty Mai Anh góp 13,5 triệu USD (90%). Công ty Hải Thành chịu trách nhiệm hoàn thiện thủ tục pháp lý và được hưởng khoản thu nhập ổn định là 115.032 USD/năm.
Tháng 5/2008, UBND TP HCM cấp giấy chứng nhận đầu tư dự án cho Công ty Hải Thành trong 50 năm. Giá trị quyền sử dụng đất được phê duyệt là 248 tỷ đồng. Số tiền này cũng được Công ty Hải Thành đề xuất chuyển cho QCHQ thay vì nộp ngân sách.
Công ty Hải Thành có trách nhiệm lập dự án đầu tư trình Bộ Quốc phòng phê duyệt theo quy định, nộp tiền sử dụng đất. Bộ Tư lệnh Hải Quân có trách nhiệm báo cáo Bộ Quốc phòng về việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất để trình Thủ tướng phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất quốc phòng trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, khi được UBND TP HCM cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng khu đất, tháng 10/2008, Công ty Hải Thành nộp hồ sơ đề nghị Sở Kế hoạch Đầu tư TP HCM điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư dự án sang Công ty Mai Thành.
Cuối năm 2009, đại diện hai công ty điều chỉnh vốn điều lệ lên 1.050 tỷ đồng. Công ty Hải Thành giữ nguyên phần vốn góp bằng giá trị quyền sử dụng đất 248 tỷ đồng (23,63%); Công ty Mai Anh góp vốn gần 277 tỷ đồng (26,37%) còn lại chuyển nhượng một phần vốn góp của mình cho Công ty TCO Việt Nam là 525 tỷ đồng (tương đương 50%). Đến tháng 11/2013, UBND TP HCM cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng khu đất 9-11 Tôn Đức Thắng từ Công ty Hải Thành sang Công ty TNHH Mai Thành.
Tháng 2/2019, biết Công ty Hải Thành chưa nộp tiền quyền sử dụng đất nên Công ty Mai Thành đã thanh toán toàn bộ số tiền theo hợp đồng liên doanh trong thời hạn 49 năm là hơn 127 tỷ đồng.
Cuối năm 2018, hai khu đất số 2, 9-11 Tôn Đức Thắng được xác định có giá 529 tỷ đồng và gần 550 tỷ đồng.
Ngoài ra, khu đất số 7-9 Tôn Đức Thắng rộng 3.500 m2 có giá trị hơn 800 tỷ đồng (giá 2018) cũng bị Đô đốc Nguyễn Văn Hiến và các thuộc cấp áp dụng các "động tác" tương tự, khiến Đinh Ngọc Hệ (tức Út "Trọc", cựu Phó tổng giám đốc Tổng Công ty Thái Sơn - Bộ Quốc phòng) và đồng phạm chiếm đoạt.
VKSND Quân sự Trung ương xác định, ông Hiến có sai phạm trong việc quản lý đất quốc phòng, ký duyệt những đề xuất không đúng quy định. Sau khi ủy quyền cho Giám đốc Công ty Hải Thành ký hợp đồng đã không kiểm tra các đơn vị liên quan thực hiện thế nào, dẫn đến việc bị đối tác đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi thế chấp, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, chuyển nhượng cho bên thứ ba. Hậu quả là Quân chủng Hải quân mất quyền sử dụng 3 khu đất trong 49 năm, gây thất thoát cho Nhà nước 939 tỷ đồng (2008-2009).
Theo đó, VKSND Quân sự Trung ương đề nghị cơ quan chức năng thu hồi 3 khu đất. Ông Hiến bị truy tố về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 360 BLHS 2015; các bị can: Bùi Như Thiềm, Bùi Văn Nga, Đoàn Mạnh Thảo, Trần Trọng Tuấn (cựu Phó giám đốc Công ty Hải Thành) bị truy tố về tội Vi phạm quy định về quản lý đất đai theo Điều 229 BLHS.
Liên quan vụ án, Đinh Ngọc Hệ, Phạm Văn Diệt (cựu Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Đức Bình) và Vũ Thị Hoan (cựu Giám đốc Công ty Yên Khánh) bị truy tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 4 Điều 174 BLHS.
Hải Duyên