Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Mỹ ước tính, trung bình cứ 5 phụ nữ nước này, có một người bị đột quỵ và gần 60% trong số đó không qua khỏi. Lý do khiến phụ nữ dễ bị đột quỵ do giới này có tuổi thọ cao hơn nam giới, cũng có nhiều khả năng bị huyết áp cao, biến chứng thai kỳ, sử dụng thuốc tránh thai.
Bác sĩ Anne Fevre, khoa Sản và phụ khoa, Bệnh viện Việt Pháp Hà Nội, cho biết các dấu hiệu đột quỵ ở thai phụ cũng tương tự nhóm bình thường. Triệu chứng thường gặp là đột ngột chóng mặt dẫn tới mất cân bằng, mắt nhìn mờ, méo miệng, liệt chân tay, đau đầu dữ dội, lú lẫn, hôn mê.
Vì vậy, phụ nữ mang thai cần đặc biệt quan tâm đến ba yếu tố có nguy cơ cao gây đột quỵ sau sinh, gồm huyết áp cao, tiền sản giật và tiểu đường thai kỳ.
Huyết áp cao và tiền sản giật
Tăng huyết áp do mang thai là bệnh lý thường xảy ra. Thai phụ có thể tăng cân đột ngột, thay đổi thị giác như mắt nhìn mờ hoặc nhìn đôi, tiểu ít, phù (sưng), đau bụng bên phải hoặc thượng vị... Cao huyết áp dẫn tới tiền sản giật là tình trạng rối loạn nguy hiểm thường gặp với phụ nữ mang thai sau tuần thứ 20.
Khoảng 25% thai phụ bị huyết áp cao có nguy cơ tiền sản giật, làm tăng nguy cơ gây đột quỵ, khoảng 5 – 8% trường hợp sản giật có nguy cơ tử vong. Nhẹ hơn gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của phụ nữ sau sinh, khả năng phục hồi chậm. Phụ nữ từng có tiền sử cao huyết áp rất dễ bị tái lại ở những lần mang thai tiếp theo.
Vì vậy, thai phụ có tiền sử huyết áp cao cần phải được theo dõi thường xuyên và kiểm soát các chỉ số của mẹ và con theo đúng chỉ định của bác sĩ, tránh nguy cơ dẫn tới tiền sản giật. Sau sinh, phụ nữ cũng cần phải theo dõi và tái khám định kỳ 1 năm/lần.
Tiểu đường
Trong giai đoạn thai kỳ, do nhu cầu năng lượng tăng cao nên cơ thể đòi hỏi phải dung nạp lượng đường nhiều hơn. Tuy nhiên, cơ thể thai phụ vẫn có thể tự điều tiết thêm lượng insulin để bù đắp lượng đường thiếu hụt.
Bên cạnh đó, phụ nữ khi mang thai dẫn đến thay đổi nội tiết tố, ảnh hưởng đến insulin và hậu quả là gây ra tiểu đường thai kỳ. Đây được xem là bệnh lý thường gặp ở mẹ bầu và chỉ được phát hiện khi đi khám thai định kỳ hoặc sau khi làm các xét nghiệm.
Thai phụ cũng có thể nhận ra một số biểu hiện của bệnh lý này như: Thường xuyên khát nước, đi tiểu nhiều lần trong ngày và lượng nước tiểu nhiều hơn, bị nhiễm nấm vùng kín và sử dụng thuốc không khỏi, sụt cân, mệt mỏi, thiếu sức sống.
Tiểu đường thai kỳ phát triển mạnh trong thời gian mang thai và sẽ biến mất sau sinh, song vẫn tiềm ẩn nguy cơ mắc bệnh tiểu đường sau này. Đây là một trong những yếu tố có nguy cơ gây đột quỵ cao gấp 2 lần so với người bình thường.
Vì vậy, phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ, việc theo dõi và kiểm soát tiểu đường trong suốt thai kỳ là việc bắt buộc phải làm. Sau sinh cần thiết phải theo dõi đường huyết định kỳ một năm/lần.
Ngoài ra, bác sĩ Anne Fevre cho biết các loại thuốc điều trị nội tiết, trong đó một số thuốc tránh thai có chứa estrogen chứa hoạt chất tăng nguy cơ đột quỵ ở phụ nữ. Vì vậy, đối với phụ nữ trên 35 tuổi, từng có tiền sử tiểu đường thai kỳ hoặc các yếu tố nguy cơ khác cần đặc biệt lưu ý khi sử dụng thuốc tránh thai chứa estrogen.
Việc điều trị tai biến mạch máu não ở thai phụ đặt ra rất nhiều thách thức khi phải đảm bảo tính mạng cho cả mẹ và con. Lựa chọn phương pháp điều trị sẽ phải cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ, thời gian bị tai biến, vị trí, phạm vi tổn thương, tuổi của thai nhi. Nhất là giai đoạn 3 tháng cuối thai kỳ và thời kỳ hậu sản là giai đoạn có nguy cơ bị đột quỵ cao nhất.
Bác sĩ khuyến cáo phụ nữ, đặc biệt nhóm có tiền sử huyết áp cao, tiểu đường thai kỳ và tiền sản giật trong thời kỳ mang thai, cần khám định kỳ hàng năm, kiểm tra huyết áp, đường máu để tầm soát tốt các yếu tố nguy cơ cao; kết hợp với chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện hợp lý.
Lê Nga