Theo ông, sau Covid-19, tình trạng "anti vaccine" vẫn tồn tại do một số người cho rằng "tiêm hay không tiêm cũng như nhau", lo ngại về mức độ an toàn của vaccine hoặc sợ con gặp phản ứng phụ, bên cạnh những nguyên nhân khách quan khác.
Yêu cầu của tôi là các em hãy phát triển bài viết, đưa ra ý kiến, lập luận của mình về các phát biểu này.
Kết quả là sinh viên đều mô tả những người 'anti vaccine’ như một cộng đồng kém hiểu biết, thiếu kiến thức y tế cơ bản, hoặc tệ hơn là bị dẫn dắt bởi những kẻ có khuynh hướng "tà giáo". Vì vậy, họ đề nghị chính quyền đẩy mạnh tuyên truyền về những bằng chứng thành công vang dội của vaccine. Thêm vào đó cần có hình phạt với những người cố tình không tiêm vaccine.
Cách tiếp cận một chiều trên dựa trên giả định rằng tiêm chủng là vấn đề đúng-sai về kiến thức khoa học khách quan (chỉ cần dữ liệu lớn về tác dụng của vaccine là đủ để phản biện) và những người "anti vaccine" là thiểu số mất đi năng lực nhận biết ấy. Tuy vậy giả định này không ổn bởi:
Một là, tinh thần "anti vaccine" không còn ở mức thiểu số mà dần trở thành tình trạng toàn cầu. Theo nghiên cứu từ Dự án Niềm tin vào vaccine do Trường Vệ sinh và Y học Nhiệt đới London (LSHTM) thực hiện, vào năm 2023, khoảng 70% người lớn ở Anh cho biết tiêm chủng là an toàn và hiệu quả, giảm mạnh so với mức 90% vào năm 2018.
52 trong số 55 quốc gia được thăm dò đều chứng kiến sự sụt giảm niềm tin tương tự kể từ năm 2019.
Cuộc thăm dò thường kỳ do YouGov thực hiện cũng cho thấy người trưởng thành ngày càng có xu hướng nói rằng vaccine có tác dụng phụ độc hại và không được tiết lộ cho công chúng. Hệ quả là cả Mỹ và châu Âu (những nền kinh tế và giáo dục đầu tàu của nhân loại) đều ghi nhận ca sởi cao nhất trong 25 năm. Bởi chỉ cần một thiểu số lớn hơn 5% không tiêm chủng, cả cộng đồng sẽ quay lại thời Trung cổ như khi các tiến bộ tiêm chủng chưa từng tồn tại.
Thế nên, hai là, "anti vaccine" không hề nằm ở việc chọn đúng - chọn sai trong tri thức khoa học, thứ có thể dễ dàng giải quyết bằng các biện pháp kinh tế và giáo dục. Một phản bằng chứng là chính những người giàu có ở một số bang tại Mỹ đã thuê bác sĩ riêng để đáp ứng các yêu cầu y tế của riêng họ, thay vì tham gia vào chiến dịch tiêm chủng chung của cả bang.
Vậy "anti vaccine" đến từ đâu, và chúng ta phải làm gì khi tương lai của cả cộng đồng đang ngày càng bị đe dọa?
Trong các nghiên cứu đương đại về khoa học hành vi với y tế cộng đồng, giới nghiên cứu cho rằng "anti vaccine" không phải hiện tượng mới xảy ra gần đây, mà xuất hiện từ buổi bình minh của tiêm chủng hàng loạt (cuối thế kỷ XIX). Anti vaccine dần trở thành một phong trào nhức nhối khi nó gắn chặt với những biến cố kinh tế - chính trị phức tạp nhất của thời đại:
Gia tăng bất bình đẳng kinh tế khiến lòng tin lẫn nhau giữa các nhóm cộng đồng ngày càng giảm sút. Từ đó tạo ra ảo ảnh rằng việc tiêm chủng hàng loạt như thể một dự án riêng dành cho giới tinh hoa thượng lưu (bởi vaccine chỉ có thể sản xuất bởi các tập đoàn dược hoặc đại học lớn) và phần còn lại bị ép buộc cuốn theo. Lòng tin này còn bị tổn thương nghiêm trọng do những bất ổn vĩ mô mà suy thoái kinh tế 2012 và dịch Covid để lại.
Sự phì đại của Internet khiến thông tin sai lệch được khuếch đại và khó kiểm soát, từ đó những niềm tin sai lầm vẫn âm ỉ chờ cơ hội bùng phát. Đôi khi, những kẻ tung tin giả về vaccine đúng mùa cao điểm cần tiêm chủng chỉ cần lượng truy cập cao để kiếm lợi chứ không vì vấn đề ý thức hệ gì cả.
Xu hướng khuếch đại rủi ro trong truyền thông (tập trung vào mất mát tiêu cực hơn là cơ hội) khiến những rủi ro rất nhỏ của vaccine cũng bị phóng đại nhiều lần, làm lung lay lòng tin vốn đã mong manh của công chúng. Cơ chế này tương tự việc giữ súng ở trong nhà. Phần trăm diễn ra một cuộc tấn công vào căn nhà của bạn khiến bạn phải cầm súng để tự vệ là vô cùng thấp, trong khi rủi ro phát sinh từ việc có khẩu súng trong nhà từ ngày này sang ngày khác lại cao hơn nhiều. Nhưng nhận thức sai lệch về thống kê thường kịch tính hóa vế đầu và bỏ qua vế sau.
Kỹ năng diễn giải khoa học không tỷ lệ thuận với sự phát triển của nó. Việc các chuyên gia y tế công cộng không đủ khả năng và kiên nhẫn giải thích cho công chúng các vấn đề y học phức tạp khiến cho người dân mất niềm tin vào các chính sách dựa trên khoa học. Tệ hơn, khi không giải thích nổi, chuyên gia y tế có xu hướng mượn thẩm quyền từ chính sách pháp luật hơn là đối thoại. Một số bằng chứng thực nghiệm cho thấy để giải quyết sự bất đồng âm ỉ này, phải chuẩn bị ngay từ ghế nhà trường, thiết kế học tập để mọi trẻ em có thể hiểu và giao tiếp bằng các dẫn chứng khoa học. Sự đi xuống ở một số bài kiểm tra chung về tư duy số liệu và khoa học ở cấp độ toàn cầu đem lại tương lai u ám hơn nữa cho đối thoại khoa học.
Sự trỗi dậy của các chính trị gia dân túy, những người đánh vào sự đồng cảm hơn là lập luận với bằng chứng. Họ luôn kêu gọi đứng về phía "kẻ yếu" và tập trung vào cảm xúc ngắn hạn thay vì những lợi ích dài hạn cần sự chung tay của cả cộng đồng như trong trường hợp tiêm chủng.
Như vậy trung tâm của phong trào "anti vaccine" không phải ở những người kém hiểu biết mà là hệ quả của sự rạn nứt trong một thế giới ngày càng bất đồng một cách rộng khắp trên tất cả lĩnh vực từ văn hóa - giáo dục đến kinh tế - chính trị.
Giải pháp phù hợp không phải chỉ đơn thuần là củng cố niềm tin vào hiệu quả y tế của vaccine, mà quan trọng hơn là khôi phục lòng tin giữa con người với nhau.
Những nỗ lực như vậy đã diễn ra: Ở Anh, chính quyền thiết kế khẩu hiệu tiêm chủng không phải vì bạn, sức khỏe của bạn, mà vì nền kinh tế chung, vì sự yên bình của cả cộng đồng.
Ở Mỹ, các y tế gia xuất hiện cùng các thủ lĩnh cộng đồng: cha xứ, thợ cắt tóc... để vừa tiêm chủng vừa đối thoại về tình trạng y tế chung của khu vực nhỏ đó.
Tôi tin rằng, với tinh thần cộng đồng và lòng tin lớn ở bác sĩ như Việt Nam, "anti vaccine", với tư cách một "phong trào tinh thần", sẽ sớm kết thúc vì những thế hệ tương lai vững vàng hơn.
Lang Minh