Theo Giảng văn Văn học Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo dục, 1998), bài thơ Cây chuối được xếp ở phần "Hoa mộc môn" (môn loại về cây hoa) trong Quốc âm thi tập. Về mặt đề tài, bài thơ thuộc hệ thống đề tài thiên nhiên. Dẫu vậy, cây chuối trong thơ Nguyễn Trãi vẫn là hiện tượng lạ của vườn hoa văn học cổ điển Việt Nam.
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,
Ðầy buồng lạ, màu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu, gượng mở xem.
Cứ xem Cây chuối có đề tài thiên nhiên thì hướng khai thác của Nguyễn Trãi đã là một bước cách tân so với truyền thống văn học trước đó. Bút pháp quy phạm của văn học trung đại đã khoanh vùng những loài cây, loài hoa cho các thi nhân ngâm vịnh. Đó là những cây như tùng, trúc, cúc, mai hoặc hoa như đào, sen, lan, huệ. Đã mấy khi "nàng thơ" chịu hạ cánh xuống nhưng cây hoa đồng nội như rau muống, kê, khoai, lạc.
Cây chuối là bài thơ vịnh, nghĩa là bút pháp tả không giữ vai trò chủ yếu, gợi mới là quan trọng. Thông qua hình tượng thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã thể hiện cảm hứng sâu sắc, kín đáo nhưng không kém phần sôi nổi, rạo rực: Cảm hứng về tình yêu tuổi trẻ.
Sự nghiệp trước thuật và sáng tác của Nguyễn Trãi cho thấy ông như một nhà hoạt động chính trị, một sử gia và một nhà thơ lớn.
Năm 1980, nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới và đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm một cách trang trọng tại Việt Nam và nhiều nước khác.
Khi nhận xét về Nguyễn Trãi, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết: "Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn. Văn là chính trị: Chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao, mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn nghìn thu. Võ là quân sự: Chiến lược và chiến thuật, yếu đánh mạnh ít định nhiều... thắng hung tàn bằng đại nghĩa. Văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm dao".