Michael Faraday (1791-1867) là nhà hóa học và vật lý học người Anh, có công đóng góp cho lĩnh vực Điện từ học và Điện hóa học. Ông sinh ra ở Newington Butts (ngoại ô London) trong một gia đình nghèo có bố làm nghề thợ rèn.
Theo sách Lịch sử Vật lý học (Nhà xuất bản Giáo dục, 2003), từ nhỏ cậu bé Faraday đã tỏ ra thông minh và hiếu học, nhưng phải sớm nghỉ học để phụ giúp gia đình. Faraday đi học việc ở một hiệu bán sách và đóng sách, rồi làm ở đó cho đến 21 tuổi.
Ở đó, ông say sưa đọc đủ loại sách, đặc biệt về triết học, vật lý học và hóa học, thử làm những thí nghiệm mô tả trong sách và muốn được đi sâu vào khoa học. Tại London khi đó, trong không khí sôi nổi của cuộc cách mạng kỹ thuật, các nhà khoa học thường hay tổ chức phổ biến khoa học.
Faraday thích thú đi nghe những buổi nói chuyện, ghi chép đầy đủ, đóng lại thành tập sách đẹp. Cảm kích trước lòng hiếu học của chàng trai, nhà bác học Humphry Davy (thuộc Học viện Hoàng gia và Hội hoàng gia London) nhận cậu làm thư ký rồi làm phụ tá phòng thí nghiệm, năm 1815 cử làm trợ lý nghiên cứu.

Chân dung Michael Faraday, phác họa bởi họa sĩ Thomas Phillips. Ảnh: Wikipedia
Từ năm 1816, Faraday độc lập nghiên cứu khoa học, lúc đầu là hóa học, sau đó là điện động lực học. Là người xuất thân từ môi trường công nhân, bằng con đường tự học, không trải qua các trường đại học mà tiến đến đỉnh cao của khoa học, Faraday không bị ràng buộc bởi những định kiến có sẵn.
Lĩnh vực được biết đến nhiều nhất của Faraday là điện và từ học. Faraday là người theo đạo nhưng về khoa học, ông là người duy vật, không công nhận tôn giáo can thiệp vào khoa học.
Ông tin rằng thiên nhiên là thống nhất, các sức mạnh thiên nhiên có bản chất thống nhất và chuyển hóa từ cái này sang cái khác. Ông quan niệm vật chất chiếm toàn thể không gian. Những quan điểm chung đó của Faraday được thể hiện trong quan niệm về trường mà ông dựa vào để giải thích bản chất hiện tượng điện từ.
Thí nghiệm được ghi chép đầu tiên của ông là làm nên pin volta bằng 7 đồng xu, xếp chồng lên 7 tấm kẽm và 7 miếng giấy được tẩm nước muối. Với loại pin này, ông đã phân tích hợp chất magie sulphat.
Vào năm 1821, ngay sau khi nhà hóa học, vật lý học người Đan Mạch, Hans Christian Orsted khám phá ra hiện tượng điện từ trường, Davy và một nhà khoa học người Anh William Hyde Wollaston cố gắng làm ra một động cơ điện nhưng bất thành.
Faraday đã thảo luận vấn đề động cơ điện với hai ông này, chế tạo hai thiết bị phát ra điện từ trường xoay: chuyển động xoay liên tục xuất phát từ lực từ xoay xung quanh dây điện và dây điện được nhúng vào cốc nước thủy ngân có thỏi nam châm bên trong sẽ xoay xung quanh thỏi nam châm nếu được cấp dòng điện từ nguồn pin hóa học. Thiết bị sau này được biết đến với cái tên "homopolar motor".
Những thí nghiệm và phát minh này hình thành nền tảng của công nghệ điện từ hiện đại. Ông ghi vào nhật ký năm 1823: "Biến từ thành điện". Tám năm sau đó, ông đã hoàn thành mục tiêu trên.
Theo sách Từ điển Danh nhân thế giới (bản dùng cho nhà trường, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003), Faraday là người phát minh ra máy biến thế và máy phát điện - hai phát minh cực kỳ quan trọng để hình thành nên thế giới hiện đại.
Câu 5: Nhà khoa học nào là người đầu tiên tìm ra vaccine cho bệnh dại?