Louis Pasteur (1822-1895) là nhà khoa học nổi tiếng người Pháp - người tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật học. Những nghiên cứu của ông đã giúp giảm tỷ lệ tử vong ở người bị bệnh sốt sau đẻ, tạo ra loại vaccine đầu tiên cho bệnh dại và bệnh than. Ông cũng góp phần hỗ trợ trực tiếp cho lý thuyết mầm bệnh và các ứng dụng trong y học lâm sàng.
Sinh ra ở vùng Dole nhưng bắt đầu đi học tại Arbois, Louis Pasteur muốn vào học trường Sư phạm Paris. Để thực hiện mong muốn này, tháng 10/1838, ông chuyển đến Paris. Tuy nhiên, vì thất vọng với cuộc sống mới ở đây, ông bỏ luôn ý định vào học trường sư phạm, rời Paris để đến học tại trường Trung học Hoàng gia ở Besancon.
Các năm 1840-1842, ông thi lấy bằng tú tài văn chương và toán. Với kết quả học tập, Pasteur một lần nữa chuyển đến Paris, đến năm 1843 được xếp hạng tư trong kỳ thi vào trường Sư phạm Paris.
Ở ngôi trường danh tiếng này, Pasteur theo học hóa học, vật lý và cả tinh thể học. Vào mỗi chiều chủ nhật, Pasteur thường làm việc tại phòng thí nghiệm của nhà hóa học nổi tiếng Jean-Baptiste Dumas nên tích lũy được nhiều kiến thức và kỹ năng quý báu.
Louis Pasteur bảo vệ hai luận án về hóa học và vật lý vào năm 1847. Năm 1848, Pasteur trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp về những công trình nghiên cứu của ông trong lĩnh vực tinh thể học.

Pasteur trong phòng thí nghiệm của mình, theo tranh vẽ của A. Edelfeldt năm 1885. Ảnh: Wikipedia
Ở tuổi 45, Pasteur bị đột quỵ dẫn đến liệt một phần nửa cơ thể bên trái. Từ lúc này, ông vùi đầu vào công việc để quên đi những mất mát to lớn. Thời đại ấy, trẻ em thường tử vong do những bệnh truyền nhiễm. Bản thân nhà khoa học đã mất đi ba con gái vào các năm 1859, 1865, 1866 do bệnh thương hàn và ung thư.
Pasteur đau đớn đến mức thốt lên "thứ duy nhất có thể mang lại niềm vui là công việc". Bi kịch gia đình trở thành động lực để ông bắt đầu cuộc chiến chống lại bệnh truyền nhiễm.
Đầu tiên, Pasteur cùng đội ngũ phát triển nghiên cứu về bệnh tả gà. Ông tiêm vi khuẩn tả vào đàn gà, các con vật bị ốm nhưng không chết như mong đợi rồi sau hình thành khả năng kháng vi khuẩn độc lực mạnh. Pasteur nhận ra mầm bệnh yếu có thể giúp động vật tăng cường miễn dịch, tạo nên bước ngoặt tiếp nối thành tựu của Edward Jenner trước đó một thế kỷ.
Pasteur nảy sinh ý định điều chế vaccine cho các bệnh khác. Ông chuyển hướng quan tâm sang bệnh than và tuyên bố tìm ra văcxin hiệu quả trên 31 loại động vật.
Pasteur tiếp tục với bệnh dại, căn bệnh với các triệu chứng khủng khiếp dẫn đến cái chết đau đớn kéo dài. Ông gặp Joseph Meister, một cậu bé bị chó dại cắn. Khi đó chẳng ai chắc chắn Joseph sẽ mắc bệnh dại, nhưng Pasteur vẫn liều lĩnh thử vaccine trên cậu bé dù trước đó chưa từng tiêm cho người.
Kết quả, Joseph sống sót. Cuộc thử nghiệm vaccine đầu tiên trên người ngày 6/7/1885 thành công dù vấp phải nhiều phản ứng rằng Pasteur vi phạm đạo đức nghề nghiệp do không có giấy phép hành nghề y.
Kết quả nghiên cứu về bệnh dại được Pasteur trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp vào ngày 1/3/1886. Nhân dịp này, ông đề nghị thành lập cơ sở sản xuất vaccine chống bệnh dại.
Năm 1887, Pasteur nhận 2 triệu Franc Pháp tiền quyên góp. Đến năm 1888, Tổng thống Sadi Carnot cho xây dựng Viện Pasteur đầu tiên tại Pháp rồi mở rộng sang các vùng thuộc địa khi đó.
Viện Pasteur Sài Gòn (nay là Viện Pasteur TP HCM) được thành lập năm 1891, theo ý tưởng của ông. Đây là chi nhánh đầu tiên ngoài nước Pháp của Viện Pasteur Paris do Albert Calmette - một trong những học trò của Louis Pasteur tổ chức và điều hành.
Pasteur điều hành Viện Pasteur Paris cho đến khi qua đời vào ngày 28/9/1895 ở tuổi 72. Ngày nay, Viện Pasteur là một trong những trung tâm nghiên cứu hàng đầu thế giới với hơn 100 cơ sở nghiên cứu.
Ở Việt Nam, ngoài Viện Pasteur TP HCM còn có Viện Pasteur Nha Trang thành lập ở năm 1895 và Viện Pasteur Hà Nội thành lập năm 1945 (nay là Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương).