Tôi từng nhìn thấy cảnh một ông phó chánh văn phòng khá cao tuổi tháp tùng vị lãnh đạo cơ quan nhỏ tuổi hơn mình. Trong khi vị lãnh đạo đi người không ung dung sải bước, thì vị phó chánh văn phòng tay ôm cặp, tay che ô tất bật chạy theo với cái dáng khom khom như cố để mình không cao hơn sếp. Hình ảnh khiến người ta cám cảnh cho ông phó chánh văn phòng kia. Nhưng tôi đồ rằng bản thân ông ta lại không thấy thế. Có vẻ ông ta đang cố gắng để sếp ghi nhận sự khúm núm, sự bợ đỡ của ông ta, từ đó sẽ thu nạp và coi ông ta là chỗ thân tín...
Báo chí cũng từng lên tiếng về việc một vị lãnh đạo khi đi thị sát tình trạng ngập nước dưới địa bàn cơ sở, đã hồn nhiên đứng trên chiếc bè do mấy nhân viên đẩy. Rồi chuyện vị sếp nọ đươc cấp dưới ghé vai cõng ra xe "để anh không ướt giày"... Hay là một ông sếp nọ, khi nhà có việc, lập tức cả một "bầu đoàn thê tử" rầm rộ đến lo lắng từng tí một. Nhiệt huyết của họ vào việc đó hơn hẳn khi họ làm việc ở cơ quan. Những câu chuyện, hình ảnh đó khiến những ai chứng kiến cảm thấy xấu hổ. Chỉ có người trong cuộc lại không thấy thế. Bởi sự nịnh nọt, bợ đỡ nào mà chẳng có động cơ và mục đich. (Trừ một vài người có thói quen nịnh bợ và coi rẻ những lời khen tặng của mình).
Tuy nhiên, có vẻ câu chuyện "nịnh bợ với động cơ không trong sáng" mới chỉ được xem xét từ người nịnh mà chưa thấy đề cập đến người được nịnh. Có lẽ vì thế mà nhiều ý kiến cho rằng: Đã cấm nhân viên nịnh thì cũng phải cấm cả sếp nhận nịnh, vì "có cầu mới có cung".
Khi xây dựng kế hoạch thực hiện quyết định "Đề án Văn hoá công vụ", Bộ Nội vụ dự định sẽ đưa một số nội dung của đề án vào Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. Trong đề án "Văn hoá công vụ", tại Điều 1, mục 4, khoản b có nội dung, cán bộ, công chức, viên chức "không nịnh bợ lấy lòng vì động cơ không trong sáng" đối với lãnh đạo cấp trên. Đây là một trong những nội dung có thể sẽ được Luật hoá.
Theo "Từ điển tiếng Việt" (Trung tâm Từ điển, ngôn ngữ 1992), nịnh là "khen quá đáng hoặc khen không đúng, cốt để làm đẹp lòng (thường nhằm mục đích cầu lợi)", và "nịnh bợ" là "Tự hạ mình, nịnh một cách hèn hạ để cầu lợi", (tr.724).
Nói như vậy để thấy, khi đề án "Văn hoá công vụ" dùng từ "không nịnh bợ" thì nội hàm của nó không chỉ là việc cấp dưới khen sếp một cách quá đáng, thô thiển, mà còn cả những hành vi khúm núm, bợ đỡ cũng nằm trong phạm vi ngữ nghĩa của từ này.
Ai từng đọc tác phẩm trào phúng của Azit Nêxin hẳn biết câu chuyện về chuyện về việc ông sếp mới về cơ quan ra ngay lệnh "cấm khen sếp". Mọi người tuân thủ, riêng ông bảo vệ vì không biết lệnh đó nên cứ hồn nhiên nịnh sếp như đã từng nịnh những vị lãnh đạo tiền nhiệm. Thoạt tiên ông sếp nọ tỏ ra khó chịu. Nhưng "mưa dầm thấm lâu", khi ông từ chỗ quen đến "nghiện" những lời khen tặng vô lối thì cũng là lúc người bảo vệ biết đến những quy định trên của sếp nên dừng, không dám nịnh nữa. Tuy nhiên, cũng từ đó người bảo vệ phải hứng chịu nhiều cơn thịnh nộ của sếp mà không biết nguyên do. Cho đến một hôm, do không chịu được sự "tối ý" của người bảo vệ, vị sếp đã nói toạc ra "Tại sao lại không khen tôi như trước".
Câu chuyện hài hước của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ hé lộ một tính cách cố hữu của nhiều vị lãnh đạo, đó là thích được xu nịnh. Thói ưa nịnh có thể là căn nguyên dẫn đến sự thiên vị, duy tình. Mà trong công vụ, sự duy cảm sẽ gây ra nhiều hậu quả. Nhẹ thì tạo sự bức xúc do thiếu công bằng trong hành xử của lãnh đạo với cấp dưới, nặng thậm chí đến mức gây hậu quả nghiêm trọng do dùng người không hợp lý. Do đó, nịnh bợ để lấy lòng, để trục lợi, để thực hiện những ý đồ đen tối thì rất đáng lên án, loại trừ. Và cùng với đó phải triệt tiêu cả những sự tán thưởng, đồng tình với sự nịnh bợ của chính những vị lãnh đạo trong cơ quan công quyền.
Nhưng chỉ cấm nịnh bợ không chưa đủ. Đi đôi với nó là chế tài xử lý nếu vi phạm. Và để có căn cứ xử lý, cần phải có tiêu chí nhận diện những biểu hiện của thói nịnh bợ. Có như vậy, những nội dung liên quan đến vấn đề này trong luật mới thực sự đi vào cuộc sống.
>> Chia sẻ bài viết của bạn cho trang Ý kiến tại đây.