Theo dữ liệu từ JATO Dynamics - hãng cung cấp số liệu hàng đầu ngành xe - 1,06 triệu xe điện cỡ nhỏ bán ra toàn cầu trong năm 2022. Phân khúc này tính các mẫu xe điện với kích thước tương đương cỡ A của xe xăng trở xuống.
Nếu so với chỉ một năm trước, thì doanh số xe điện cỡ nhỏ toàn cầu trong 2022 tăng đáng kể: 1,06 triệu xe so với gần 710.000 xe của năm 2021. Nếu so với 2020, thì con số của 2023 gấp khoảng 4 lần. Còn nếu so với 2017, khoảng cách đã tới gần 10 lần.
Xu hướng phát triển của xe điện cùng với việc các thành phố lớn trên thế giới ngày càng chật chội được lý giải là nguyên nhân khiến nhu cầu của dòng xe điện mini tăng vọt. Sức phát triển này đồng nghĩa với việc, thị trường vẫn còn cơ hội cho các nhà sản xuất lớn khác tham gia.
Doanh số 1,06 triệu xe năm 2022 đến từ hơn 20 nhà sản xuất, với 32 sản phẩm, trong đó phần lớn có xuất xứ Trung Quốc (14 thương hiệu, 22 sản phẩm). Có nhiều sản phẩm nhất là SAIC, với 6 mẫu xe, trong khi những cái tên như Mercedes, Toyota hay Hyundai lại chỉ có một sản phẩm.
Doanh số xe điện mini trên toàn cầu năm 2022:
STT | Nhà sản xuất | Doanh số |
1 | SAIC | 617.852 |
2 | Changan | 158.193 |
3 | Chery | 102.261 |
4 | Những hãng Trung Quốc khác (*) | 74.019 |
5 | Jianghuai | 51.240 |
6 | Renault-Nissan-Mitsubishi | 25.267 |
7 | Tata | 15.120 |
8 | Dongfeng | 6.190 |
9 | GM | 5.209 |
10 | Great Wall | 4.187 |
11 | BYD | 1.134 |
12 | Toyota | 580 |
13 | Stellantis | 368 |
14 | BAIC | 44 |
15 | Mercedes | 1 |
(*) Nhóm này bao gồm các hãng Hawtai, Jiangnan, JMC, Leapmotor, Levdeo, ZeDrive, Zotye.
Sân chơi xe điện mini vẫn là đất diễn tuyệt đối của các hãng xe tới từ Trung Quốc. Tổng doanh số của các hãng đến từ quốc gia này chiếm tới 95,6% toàn phân khúc. SAIC là cái tên lấn lướt toàn bộ các đối thủ khác. Trong khi Changan, Chery cạnh tranh gay gắt cho vị trí thứ hai.
Tổng doanh số của các hãng "không Trung Quốc" ở phân khúc này chỉ là 4,4%, dành cho General Motors (GM), Mercedes, Renault-Nissan-Mitsubishi, Stellantis, Tata và Toyota. Trong đó, thương hiệu bán được nhiều xe điện nhất là liên minh Renault-Nissan-Mitsubishi với hơn 25.200 xe. Hãng xe đến từ Ấn Độ, Tata, cũng bán được hơn 15.000 xe. Phần còn lại có doanh số không đáng kể.
Về sản phẩm, vị trí đứng đầu của SAIC được đóng góp chủ yếu từ Wuling Hongguang Mini EV với 522.555 chiếc bán ra toàn cầu, chiếm tới 49% doanh số toàn phân khúc. Đây là sản phẩm của liên doanh GM-SAIC-Wuling (viết tắt SGMW).
Đứng thứ hai là Chery Ice Cream với gần 100.000 xe và thứ ba là Chana Benben EV với 96.195 xe.
Doanh số top 10 xe điện mini năm 2022:
STT | Mẫu xe | Doanh số |
1 | Wuling Hongguang Mini EV | 522.555 |
2 | Chery Ice cream | 99.938 |
3 | Chana Benben/Benben EV/E-Star | 96.192 |
4 | Leapmotor T03 | 65.065 |
5 | Changan Lumin | 62.001 |
6 | JAC IEV6E/E10X | 51.222 |
7 | Roewe Clever | 46.361 |
8 | Baojun E300 | 31.404 |
9 | Nissan Sakura | 23.945 |
10 | Tata Tigor | 15.120 |
Cả Wuling Hongguang Mini EV và Chery Ice Cream đều có giá khởi điểm chưa đến 5.000 USD. Có nghĩa là các hãng xe Trung Quốc có thể làm ra những mẫu xe điện rẻ hơn các sản phẩm của các hãng châu Âu đến 10.600 USD - một lợi thế lớn gây áp lực đối với các đối thủ, theo nhà cung ứng linh phụ kiện ôtô Forvia. Và người Trung Quốc có thể làm ra "những chiếc xe tốt" còn châu Âu không thể ngăn việc nhập khẩu.
"Những chiếc xe tốt" ở đây được hiểu là các sản phẩm "tròn trịa" trong tầm giá mà đảm nhiệm. Wuling Hongguang Mini EV là mẫu xe làm tốt nhất điều đó. Với khoảng giá chỉ 5.000 USD, người dùng có một chiếc ô tô bốn bánh, tránh mưa, nắng tốt hơn xe máy. Khả năng di chuyển đảm bảo cho nhu cầu thành phố với 100 km phạm vi mỗi lần sạc. Tốc độ tối đa 100 km/h, tối ưu ngưỡng 60-80 km/h cũng đủ khi chạy trong phố đông.
Ngoài ra, những tiện nghi cơ bản vẫn được đảm bảo, như điều hòa, âm thanh, radio hay công nghệ an toàn cũng đủ dùng như một túi khí cho tài xế, phanh ABS, phân bổ lực phanh điện tử, cảm biến áp suất lốp cũng như camera lùi và các cảm biến đỗ xe.
Tuy vậy, không thể kỳ vọng một chiếc xe điện dài chỉ 2,9 m, rộng 1,5 m, tức là khá nhỏ so với Kia Morning, lại có thể chạy "băm bổ" ở tốc độ cao trên đường cao tốc hay những chuyến đi dài ra khỏi thành phố. Chúng không được sinh ra để làm điều đó, mà để cho các bà nội trợ đi lại hàng ngày, hay giới trẻ sinh viên, người mới đi làm tìm kiếm một phương tiện cá nhân thay cho phương tiện công cộng hay xe máy.
Liên doanh SGMW đang chiếm miếng bánh quá lớn thị phần phân khúc này với Wuling Hongguang Mini EV, nhưng không có nghĩa các hãng khác "dậm chân tại chỗ". Châu Âu cũng không thiếu các mẫu xe điện cỡ nhỏ. Ở châu lục nơi nhiều quốc gia có đường phố chật hẹp, và nhiều người chỉ đi một quãng đường ngắn mỗi ngày, thì dòng xe nhỏ chi phí thấp sử dụng loại năng lượng sạch là một lựa chọn hợp lý.
Những mẫu xe điện cỡ nhỏ ở châu Âu có thể kể đến Citroen My Ami Orange giá từ 8.000 USD hay Invicta Electric D2S giá từ 17.000 USD, cũng là hai sản phẩm rẻ nhất thuộc phân khúc này. Những sản phẩm có giá cao hơn như Fiat 500e (21.700 USD), Smart EQ fortwo (26.500 USD) hay Renault Zoe (33.600 USD).
Nhưng châu Âu còn có một phân khúc đặc biệt - xe 4 bánh (quadricycle), được xác định qua trọng lượng, thông số động cơ và tốc độ. Có hai hạng mục xe 4 bánh: hạng nhẹ (L6e) và hạng nặng (L7e).
Các xe thuộc L6e có trọng lượng không quá 425 kg, chưa tính pin nếu là xe điện, và tốc độ tối đa theo thiết kế không quá 45 km/h, động cơ không quá 8 mã lực (với cả động cơ đốt trong cũng như động cơ điện).
Xe thuộc L7e có trọng lượng không quá 450 kg, chưa tính pin nếu là xe điện, trọng tải không quá 200 kg (chở người) hoặc 1.000 kg (chở hàng hóa), động cơ không quá 20 mã lực.
Renault Twizy giá từ 20.200 USD là một đại diện của dòng xe 4 bánh chạy điện hạng L7e. Doanh số cộng dồn của mẫu xe điện hai chỗ với kiểu cửa không kín từ khi bán ra năm 2012 đến hết 2019 là hơn 29.000 xe. Thậm chí, Twizi còn có phiên bản nhái ở Trung Quốc là mẫu Rayttle E28 giá bán chỉ hơn 5.000 USD.
Một số cái tên khác có thể kể tới như Microlino 2.0 - sản phẩm của hãng xe Thụy Sĩ Micro - là một mẫu xe điện siêu nhỏ giá từ 14.800 USD, hay Tazzari Zero từ Italy được sản xuất từ 2009, giá tại châu Âu khoảng từ 21.500 USD và từ 30.000 USD ở Mỹ. Eli Zero - sản phẩm từ startup Mỹ-Trung Quốc Eli - được sản xuất từ 2021, bán ở cả Mỹ và châu Âu, với mức giá ở châu Âu khoảng từ 12.000 USD.
Mỹ, đất nước vốn ưa chuộng xe cỡ lớn, cũng có một số mẫu xe điện cỡ nhỏ thuộc thương hiệu nội địa. Startup Wink Motors có trụ sở ở New York tham gia thị trường với mẫu Mark 1 có hai cửa và 4 chỗ, giá từ 11.000 USD.
Phần lớn dòng xe điện cỡ nhỏ có hành trình tối thiểu 48 km mỗi lần sạc, với nhiều mẫu chạy được quãng đường gấp 2-3 lần. Theo Bộ Giao thông Vận tải Mỹ, hơn 50% những chuyến đi cá nhân hàng ngày tại quốc gia này chưa đến 5 km. Có nghĩa, những mẫu xe điện nặng nề và đắt đỏ cùng hành trình 480 km mỗi lần sạc là không cần thiết. Vì thế, một chiếc xe với tốc độ 40 km/h cùng hành trình khoảng 64 km mỗi lần sạc là đủ cho những chuyến đi trong thành phố hàng ngày.
Lúc này, xe điện cỡ nhỏ vẫn phổ biến nhất ở Trung Quốc, sau đó là châu Âu. Tuy nhiên, xu hướng được dự đoán sẽ lan ra những nơi khác trên thế giới, khi mật độ giao thông ngày càng tăng, không gian lưu thông hạn hẹp, và nhu cầu dịch chuyển sang dòng xe xanh ngày càng mạnh mẽ.
Mỹ Anh (theo Electrek, Jato)