![]() |
Rái cá mũi lông. |
Tuyên bố trên được đưa ra trong cuộc hội thảo quốc tế tại Kiên Giang cuối tháng 2 vừa qua.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Đặng (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật), tại Việt Nam, thông tin về rái cá mũi lông được công bố lần đầu tiên khi người ta tìm thấy sự hiện diện của chúng tại Trung Bộ vào năm 1932. Khoảng 9 năm sau Pocock, một nhà nghiên cứu rái cá khác, mới công bố lần thứ hai, tìm thấy loài rái cá này tại Long Xuyên, An Giang và Huế.
Đến năm 1977, một đoàn cán bộ điều tra của Viện Sinh học Việt Nam thu được hai mẫu vật rái cá mũi lông: một tại huyện Ngọc Hiển (Cà Mau) và một mẫu khác ở huyện Phụng Hiệp (Cần Thơ). Sau đó, mặc dù có rất nhiều cuộc khảo sát của các nhà khoa học trong và ngoài nước, ở nhiều vùng đất khác nhau trên lãnh thổ nước ta, nhưng vẫn không tìm thấy sự hiện diện của loài rái cá này. Cho đến năm 2000, trong chương trình nghiên cứu rái cá tại rừng U Minh Thượng, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy vết chân, phân và sau đó bằng phương pháp đặt bẫy ảnh, họ đã chụp được hình ảnh của loài rái cá mũi lông và loài rái cá vuốt nhỏ sinh sống tại đây.
Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn chưa xác định được chính xác số con còn lại tại Vườn quốc gia U Minh Thượng, mà chỉ có thể khẳng định đó là loài rái cá rất quý hiếm, khó tìm và đây là nơi duy nhất của Việt Nam tồn tại loài rái cá này.
Nguy cơ tuyệt chủng trước mắt
Cũng theo các nghiên cứu công bố gần đây, tại Việt Nam hiện có bốn loài rái cá sinh sống, nhưng tất cả đều thuộc diện có nguy cơ bị diệt vong. Từ những năm 1990 trở lại đây, ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều đường dây chuyên mua bán da rái cá đưa ra tiêu thụ ở nước ngoài (da, lông rái cá được xếp vào danh mục hàng cao cấp số 1). Vì thế tình trạng săn bắt rái cá khá phổ biến. Ước tính trong thời kỳ nói trên, rái cá ở Việt Nam suy giảm khoảng 60% do bị săn bắt. Bên cạnh đó, môi trường sống chúng cũng đang bị thu hẹp nhanh chóng bởi nạn phá rừng, phát quang bụi rậm ven các thủy vực, san lấp làm khô cạn các hồ ao, kênh rạch...
Nếu như từ năm 1930 về trước, rừng U Minh Thượng có diện tích lên đến 142.000 ha thì đến năm 1975 chỉ còn khoảng 100.000 ha, năm 1978 còn 21.800 ha và giờ đây U Minh Thượng dù đã trở thành vườn quốc gia nhưng diện tích "teo" lại vỏn vẹn trên 8.000 ha. Theo ghi nhận của các chuyên gia, điều đáng lo ngại là loài rái cá ở rừng U Minh Thượng đang phải tỏa ra các vùng đệm, nơi có đông cư dân sinh sống để kiếm mồi, do vậy nguy cơ bị con người tiêu diệt là rất cao.
Tiến sĩ Hiroshi Sasaki, Tổng thư ký Tổ chức nghiên cứu rái cá Nhật Bản, cho rằng việc phát hiện loài rái cá mũi lông ở U Minh Thượng là kỳ công và vô cùng thú vị. Do đó việc bảo tồn loài này phải được tiến hành khẩn trương và hiệu quả.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Đặng cho biết, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật đã có dự thảo kế hoạch hành động nhằm bảo tồn loài rái cá mũi lông. Theo đó, sẽ lấy rái cá làm biểu tượng, logo cho vùng này, tiếp tục điều tra sự phân bố và đánh giá tình trạng chủng quần của loài rái cá mũi lông ở ĐBSCL; xây dựng chương trình giám sát thường xuyên quần thể rái cá mũi lông ở vườn quốc gia U Minh Thượng và vùng phụ cận; tuyên truyền, nâng cao nhận thức và xây dựng chương trình bảo tồn rái cá và động vật hoang dã có sự tham gia của người dân trong vùng U Minh Thượng và các vùng phụ cận...
Trên thế giới hiện có 13 loài rái cá sinh sống (châu Phi: 4, châu Á: 5, châu Âu: 1, châu Mỹ Latinh: 5 và Bắc Mỹ: 2). Rái cá mũi lông là loài quý hiếm nhất trong số năm loài rái cá được phát hiện ở châu Á và là loài cần ưu tiên bảo tồn hàng đầu trên thế giới. Đặc điểm của loài rái cá mũi lông: gương mũi có lông dày (các loài rái cá khác không có lông ở gương mũi), vuốt dày, thân dài 50-94 cm, đuôi dài 30-58 cm, trọng lượng 5-7 kg. |
(Theo Tuổi trẻ)