![]() |
|
Các nhà tâm lý hiện đánh giá năng khiếu như một khái niệm mang tính điều kiện và tạm thời. Tính điều kiện thể hiện ở chỗ có rất nhiều điểm (nếu như không nói là tất cả) phụ thuộc vào việc đứa trẻ có năng khiếu sẽ phát triển khả năng của mình như thế nào, liệu gia đình có sẵn sàng ủng hộ những say mê của trẻ hay không. Ví dụ, một đứa trẻ được nuôi dạy và lớn lên trong một gia đình nhạc sĩ sẽ có nhiều khả năng trở thành một nhạc sĩ sau này hơn rất nhiều so với một đứa trẻ mà cha mẹ không liên quan gì đến âm nhạc. Tính tạm thời của khái niệm này là ở chỗ, năng khiếu có thể được bộc lộ ở những thời điểm khác nhau của cuộc sống, có thể từ lúc nhỏ, hay cũng có thể vào lúc đã trưởng thành. Như Albert Einstein, lúc nhỏ nếu được các chuyên gia tâm lý hiện đại kiểm tra, có lẽ được xếp vào... loại kém, do cậu biết nói khá muộn, thành tích học tập không tốt và thậm chí từng bị đuổi vì học kém. Trong khi nhiều thiên tài khác như nhà vật lý - lý thuyết Liên Xô Lev Landao, người sáng lập ra ngành điều khiển học Norder Viner… lại có năng khiếu được bộc lộ từ khi còn nhỏ.
Trí tuệ phân biệt và trí tuệ bao quát
Theo phó giám đốc Viện Tâm lý học Nga Serguey Maly, hiện có tới hơn 100 định nghĩa khác nhau về năng khiếu, cho dù tất cả chúng đều không có được tính khái quát đầy đủ và cũng không thể làm hài lòng tất cả các chuyên gia tâm lý, sư phạm. Tiêu chí chính của tài năng là nhu cầu kiên trì của đứa bé trong một công việc trí tuệ phức tạp nào đó. Đó có thể là mong muốn giải được những bài toán khó, làm thơ hay soạn thảo ra một chương trình máy tính mới…
Ở độ tuổi học phổ thông, năng khiếu đôi khi không liên quan trực tiếp đến thành tích học tập tốt. Nói đơn giản hơn, đây là một kiểu năng khiếu trí tuệ riêng biệt. Trẻ thuộc loại này thường có khuynh hướng thích tự mình nghiên cứu sâu và mở rộng kiến thức trong lĩnh vực mình quan tâm, có khả năng tư duy một cách triết lý với những gì đã được đọc. Tuy nhiên, mối quan tâm đối với một lĩnh vực hoạt động thường dẫn tới việc trẻ có thành tích xuất sắc trong một số môn học, trong khi vẫn “bình thản” đón nhận điểm kém ở những môn khác. Nhưng chính những trẻ loại này mới có nhiều khả năng trở thành những nhà khoa học tiềm năng, người sáng tạo ra những ý tưởng mới, có khả năng tạo ra những phát minh đáng kể.
Một số loại khác lại có năng khiếu thuộc loại trí tuệ bao quát. Trong trường hợp này, khả năng của chúng thể hiện rõ nhất trong quá trình học tập. Việc học đối với chúng rất thoải mái, hầu như không có chút khó khăn nào - đối với bất kể môn gì. Những học sinh thuộc loại “luôn được khen thưởng” này có nhiều khả năng trở thành những chuyên gia tốt trong tương lai.
Các loại năng khiếu khác
Có một dạng năng khiếu nữa có thể dễ dàng dự đoán - đó là năng khiếu về nghệ thuật. Nó thể hiện trong mối quan tâm của trẻ đối với những loại hoạt động sáng tạo như âm nhạc, khiêu vũ, hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…
Kiểu năng khiếu thứ tư là năng khiếu sáng tạo. Nó được thể hiện trong cách suy nghĩ khác với thông thường, cách nhìn đặc biệt đối với thế giới, khuynh hướng muốn dựng nên những dự án riêng. Trẻ thuộc loại này thường hay gây xung đột, khó bảo, có tính độc lập trong những quyết định của mình và thường phớt lờ các nguyên tắc. Ví dụ như chúng có thể tới lớp với bộ quần áo nhàu nát, sách vở ghi chép lộn xộn… Ở những học sinh loại này thường dễ dàng nhận thấy khuyết điểm, trong khi những khả năng sáng tạo của chúng thường chỉ được xác định sau quá trình khảo sát của một chuyên gia tâm lý. Để làm rõ được năng khiếu này, cần phải đưa ra một hoạt động cho phép tính tự chủ: ví dụ một bài văn có chủ đề khác thường hay một giải pháp kỹ thuật nào đó.
Kiểu năng khiếu tiếp theo có thể dễ dàng nhận thấy, nhưng thường không được dễ dàng chấp nhận - đó là năng khiếu về xã hội (năng khiếu chỉ đạo). Kiểu này có đặc trưng là khả năng hiểu được mọi người, biết cách thiết lập những mối quan hệ xây dựng với họ, lãnh đạo họ. Năng khiếu lãnh đạo cần phải có một mức độ trí tuệ đủ cao, một trực giác phát triển và khả năng đồng cảm. Cũng có những “thủ lĩnh tình cảm” luôn là nơi trút bầu tâm sự của mọi người, trong khi cũng có những thủ lĩnh của hành động. Họ biết cách đưa ra những quyết định đúng, xác định mục tiêu và nhiệm vụ dành cho những người khác. Ở những học sinh có năng khiếu chỉ đạo, mối quan tâm với học hành thường không được cao. Do có tính cách mạnh mẽ và độc lập, chúng có thể dễ dàng công khai bỏ học hay được coi là con người hay gây gổ.
Dạng năng khiếu cuối cùng trong danh sách là năng khiếu động cơ tâm lý (thể thao). Theo một điều tra mới đây về các vận động viên nổi tiếng, nhận định về khả năng trí tuệ thấp của họ thường là không đúng. Ngược lại, đa số vận động viên đều có mức độ trí tuệ cao. Các nhà khoa học từ lâu đã chứng minh được mối quan hệ trực tiếp giữa sự phát triển của động cơ, tâm lý và trí tuệ. Không phải tình cờ mà trong số những vận động viên nổi tiếng còn có những nhà văn được thừa nhận, những thương gia thành đạt hay những nhà sư phạm tài năng. Những đứa trẻ có năng khiếu thể thao có thể thường xuyên học không tốt không phải do chúng không thể tiếp thu, mà đơn giản chỉ bởi chúng không có đủ thời gian cho việc học hành.
(còn nữa)
Thế Giới Mới (theo Itogi)