Ông Clarence Borel, 57 tuổi, một cư dân Texas đã làm công nhân sản xuất tấm cách nhiệt suốt 33 năm và chỉ nghỉ việc năm 1969 khi bị ung thư phổi.
Công việc khiến ông phải tiếp xúc với nồng độ bụi amiăng dày đặc do khí amiăng tạo ra từ vật liệu cách nhiệt. Một ngày làm việc với vật liệu cách nhiệt có chứa amiăng khiến quần áo ông thường bám bụi đến mức "chỉ cần nhặt chúng lên từng lớp mà không giũ đập".
Borel nói từ lâu đã biết bụi amiăng có hại nhưng chưa bao giờ nhận ra nó có thể gây ra bất kỳ căn bệnh chết người nào. Ông và các đồng nghiệp đều được công ty trấn an rằng bụi này "tan khi nó chạm vào phổi".
"Tôi thực sự chưa bao giờ biết nó nguy hiểm thế nào. Nếu tôi biết thì đã nghỉ. Tôi biết mình đang làm việc với vật liệu cách nhiệt chứa amiăng, nhưng không biết amiăng là gì", ông Borel nói.
Những năm đầu ông làm việc, công nhân không được trang bị mặt nạ phòng độc, phòng bụi. Do đó, đôi khi ông sẽ đắp một chiếc khăn tay ướt lên lỗ mũi hoặc bôi tinh dầu bạc hà nhưng những phương pháp này cũng không hiệu quả.
Borel nói trong suốt thời gian đầu làm việc của mình và cho đến giữa những năm 1960 đều có sức khỏe tốt, ngoại trừ những cơn đau do tắc nghẽn phổi mà bác sĩ cho là bệnh viêm màng phổi. Năm 1964, một bác sĩ khám cho Borel liên quan đến hợp đồng bảo hiểm và thông báo kết quả chụp X-quang phổi bị đục. Bác sĩ nói nguyên nhân có thể do công việc và khuyên tránh bụi amiăng nhiều nhất có thể.
Ngày 19/1/1969, ông Borel nhập viện, được chẩn đoán là bệnh bụi phổi amiăng. Vì căn bệnh được coi là không thể chữa khỏi, ông được cho về nhà.
Tình trạng của ông dần trở nên tồi tệ hơn trong thời gian còn lại của năm 1969. Ngày 11/2/1970, ông Borel phải phẫu thuật cắt bỏ phổi phải, được xác định mắc ung thư trung biểu mô, nguyên nhân do bệnh bụi phổi amiăng.
20/10/1969, ông đệ đơn kiện lên Tòa án quận phía Đông Texas chống lại 11 nhà sản xuất vật liệu cách nhiệt amiăng, yêu cầu bồi thường một triệu USD. Ông chết ngày 3/6/1970, trước khi vụ án được xét xử vào tháng 9 năm sau.
Tại phiên tòa, luật sư của ông đã đưa ra các dẫn chứng y học cho thấy các sản phẩm amiăng thường dễ vỡ, nghĩa là chúng giải phóng các sợi cực nhỏ vô hình. Việc con người hít phải đôi khi sẽ tạo ra bệnh bụi phổi amiăng, ung thư trung biểu mô và các bệnh nguy hiểm khác. Bệnh khó phát hiện do có thời gian ủ bệnh lên tới 20-40 năm.
Theo luật Texas, nhà sản xuất sản phẩm bị lỗi có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý với người dùng hoặc người tiêu dùng về bảo hành hoặc vi phạm pháp luật. Luật sư cho rằng nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm với ông Borel vì các công ty sản xuất amiăng biết hoặc lẽ ra phải biết về sự nguy hiểm của chất này để cảnh báo, khuyến có biện pháp bảo hộ. Nhưng họ đã không làm và cũng không loại bỏ bỏ khỏi thị trường khi xác định chắc chắn các sản phẩm chứa amiăng có thể gây bệnh tật.
Trong khi đó, các luật sư của 11 bị đơn lập luận rằng kiến thức khoa học về sự nguy hiểm của việc tiếp xúc với amiăng là chưa đầy đủ. Hơn nữa, ông Borel cũng có lỗi vì làm việc mà không có bảo hộ.
Phản đối những lập luận này, luật sư của ông Borel dẫn tài liệu cho thấy nhiều năm trước đó, các bác sĩ Trường Y khoa Mount Sinai, New York và các chuyên gia y tế khác đã công bố thông tin khoa học về sự nguy hiểm của vật liệu amiăng.
Các nhà sản xuất amiăng đã biết đến rủi ro với công nhân cách nhiệt từ những năm 1930 và thiết kế một biện pháp che đậy để che giấu thông tin về rủi ro phơi nhiễm amiăng nhằm tránh trách nhiệm pháp lý. Một nhà sản xuất đã giữ kín kết quả kiểm tra y tế của công ty với những nhân viên bị phát hiện mắc các bệnh liên quan amiăng.
Các nhà sản xuất cũng từ chối cho phép các cơ quan chính phủ kiểm tra và khảo sát an toàn. Các công ty thường chỉ cho phép khi các cơ quan quản lý đồng ý giữ bí mật kết luận của họ. Ngoài ra, các nhà sản xuất cũng bị cáo buộc gây áp lực cho các nhà nghiên cứu y tế để trì hoãn việc công bố các cuộc điều tra và thay đổi kết luận của họ.
Vụ án được xem xét bởi bồi thẩm đoàn, do đó thẩm phán có trách nhiệm hướng dẫn về mặt nguyên lý pháp luật cho bồi thẩm đoàn. Trong trường hợp này, thẩm phán đánh giá nhà sản xuất sản phẩm cần có kỹ năng của một chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm của mình, đồng thời bám sát kiến thức khoa học chuyên sâu về thứ mình sẽ bán. Điều này đồng nghĩa, công ty phải đưa ra cảnh báo về tác hại có thể xảy ra với người sử dụng sản phẩm.
Ngày 29/9/1971, bồi thẩm đoàn ra phán quyết: ông Borel có sơ suất một phần, nhưng quan trọng hơn, các nhà sản xuất amiăng đã vi phạm luật trách nhiệm pháp lý với sản phẩm. Do đó, họ phải chịu trách nhiệm nghiêm ngặt về những thương tích của người sử dụng, trường hợp này là nguyên đơn quá cố.
Sau phiên phúc thẩm, tòa giữ nguyên phán quyết và ấn định mức bồi thường thiệt hại cho ông Borel là 80.000 USD, năm 1973.
Phán quyết được coi có ý nghĩa to lớn đối với các nhà sản xuất amiăng và các công ty bảo hiểm của họ, cũng như hàng nghìn công nhân amiăng và gia đình.
Sự thành công này kéo theo loạt vụ kiện tụng với cùng nội dung. Khoảng 25.000 vụ kiện đã được đệ trình khắp nước Mỹ, ngay sau phán quyết có lợi cho người tiêu dùng và khiến các nhà sản xuất amiăng đối mặt thời kỳ đen tối.
Trong hai thập kỷ tiếp theo, những tác động của vụ kiện Borel tiếp tục gia tăng. Lượng người yêu cầu bồi thường do phơi nhiễm amiăng lên hơn 730.000 vụ khiến các nhà sản xuất phải chi trả hơn 70 tỷ USD.
Vào đầu những năm 1980, các vụ kiện tụng về amiăng đã được mở rộng yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản, không chỉ sức khỏe người tiêu dùng. Cụ thể, nhiều khu học chánh và tổ chức công cộng toàn quốc đã đệ đơn kiện các công ty amiăng về chi phí loại bỏ các tấm cách nhiệt và phòng chống cháy bằng amiăng khỏi các tòa nhà công cộng. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng do các sản phẩm amiăng đã được lắp đặt trong nhiều tòa nhà trường học từ 1946 đến 1972.
Để giải quyết những vấn đề này, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Kiểm soát và Phát hiện Nguy cơ Amiăng trong trường học năm 1980 và thành lập một lực lượng đặc nhiệm liên bang để xác định mức độ nguy hiểm với học sinh và nhân viên.
Quốc hội cũng yêu cầu các bang thiết lập các chương trình kiểm tra amiăng, cung cấp hỗ trợ khoa học và kỹ thuật cho các bang và khu học chánh, đồng thời ủy quyền cho Chính phủ Mỹ kiện các công ty amiăng về chi phí cắt giảm amiăng.
Năm 1980, Cơ quan Bảo vệ Môi trường đã đưa ra cảnh báo về amiăng trong các trường công lập, ước tính 8.500 trường học có chứa amiăng, đe dọa sức khỏe của 3 triệu học sinh cùng với các giáo viên và nhân viên có liên quan.
Năm 1985, Cơ quan Bảo vệ Môi trường EPA đưa ra dữ liệu mới, ước tính con số này là 16,4 triệu. Tổng chưởng lý năm sau đó chính thức khuyến nghị các khu học chánh xem xét khởi kiện. Hầu hết các vụ kiện đều thành công.
Các vụ kiện tụng về amiăng đã khiến nhiều công ty phá sản do thiệt hại vượt xa lợi nhuận mà các công ty thu được từ việc bán và sử dụng amiăng. Một số công ty lợi dụng việc phá sản để trốn tránh trách nhiệm pháp lý. Với những ty khác, kiện tụng là nguyên nhân dẫn đến phá sản.
Hiện vẫn còn những vướng mắc, ví dụ người bệnh ung thư liên quan đến amiăng nhưng chưa phát bệnh thì sao? Nếu đến lúc những người đó phát bệnh và hầu hết các công ty đều đã phá sản thì việc bồi thường như thế nào? Liệu họ có thể khởi kiện ngay bây giờ để đòi những thiệt hại trong tương lai không?
Tại Việt Nam, bệnh bụi phổi amiăng từ năm 1976 được công nhận là bệnh nghề nghiệp được đền bù. Nhật Bản cấm sử dụng amiăng từ năm 2012 ở tất cả ngành công nghiệp.
Trên thế giới, từ năm 2013 đến nay có hơn 60 nước đã cấm sử dụng các dạng amiăng trong đó có Liên minh châu Âu, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand...
Tổ chức Y tế Thế giới và Tổ chức Lao động quốc tế đều khuyến nghị cấm hoàn toàn sử dụng mọi dạng amiăng. Đây là cách hiệu quả nhất để loại bỏ các bệnh liên quan đến chất này.
Hải Thư (Theo US Law, Texas Statte Historical Association)