From: VU
To: Thế giới
Sent: Wednesday, March 12, 2003 6:54 AM
Subject: bai viet moi
Sự phân chia này không hẳn đã phản ánh đúng thực chất của quan hệ quốc tế (cũng như sự phân chia mà chúng ta đã từng chứng kiến trong thời kỳ chiến tranh lạnh) mà phản ánh cuộc đấu tranh lợi ích giữa các quốc gia, những diễn viên chính trên trường quốc tế. Bên ủng hộ cũng như bên phản đối cuộc chiến tranh này, dù che giấu hay công khai lợi ích của mình, đều cố gắng đưa ra những lý giải cho thái độ mà họ lựa chọn. Trong bài viết này, tôi xin được tóm tắt cuộc tranh luận của hai phe (trên trường quốc tế) bằng cách đối lập những lập luận của họ.
Không cần nhắc lại nhiều về những nước xếp trong hàng ngũ các nước ủng hộ chiến tranh. Đứng đầu nhóm này là Hoa Kỳ với vai trò là nước khởi xướng, phát động và biện hộ hăng hái nhất cho một cuộc chiến chống chế độ Bagdad. Đằng sau Hoa Kỳ là Anh, đồng minh thân cận, Tây Ban Nha, Italia, Nhật Bản, Australia và một loạt các nước khác có lợi ích chiến lược trong cuộc chiến do Hoa Kỳ lãnh đạo.
Lý do để khởi xướng và ủng hộ cuộc chiến của các nước này được nêu rõ và đầy đủ trong bản báo cáo có tựa đề “Một thập kỷ lừa dối và thách thức” được Tổng thống Hoa Kỳ G. W. Bush trình bày trước Hội đồng Bảo an LHQ ngày 12/9/2002. Ba lập luận cơ bản cho cuộc chiến được ông Bush phát triển gồm: thứ nhất, Iraq vi phạm một cách nghiêm trọng và có hệ thống 16 nghị quyết của LHQ; thứ hai, Iraq đang sở hữu vũ khí huỷ diệt hàng loạt (hạt nhân, sinh học và hoá học) và tên lửa đạn đạo cho phép Iraq tấn công các nước khác trong khu vực; thứ ba, chế độ cầm quyền tại Bagdad bị buộc tội vi phạm những quyền con người cơ bản (tra tấn, hãm hiếp, hành quyết tập thể).
Bốn lý do khác mà bản báo cáo này nêu ra gồm: thứ nhất, sự ủng hộ của chính quyền Saddam Hussein đối với chủ nghĩa khủng bố (Iraq bị cáo buộc tài trợ cho các tổ chức du kích Palestine và trợ cấp cho mỗi gia đình thành viên du kích thực hiện đánh bom tự sát chống Israel 25.000$); thứ hai, Iraq bị tố cáo không thực hiện đúng Công ước quốc tế về tù binh chiến tranh vì vẫn còn giam giữ các phi công Hoa Kỳ sau chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991; thứ ba, Iraq chiếm đoạt nhiều tài sản mà Iraq đã đánh cắp trong lần xâm lược Kuwait năm 1990 (các tác phẩm nghệ thuật và phương tiện chiến tranh) và cuối cùng, chính quyền Bagdad bị buộc tội lợi dụng chương trình “dầu lửa đổi lương thực” vào các mục đích không phục vụ nhu cầu dân sinh.
Trong các tranh luận sau đó, Hoa Kỳ và các đồng minh tập trung chủ yếu vào các lập luận sau :
1. Dựa trên quan điểm “dân chủ”, các nước này cáo buộc chính quyền Saddam Hussein, về bản chất, là một trong những chính quyền độc tài khát máu nhất khu vực (điều này có nghĩa là còn những chính quyền độc tài khát máu khác trong cùng khu vực này - có lẽ sẽ là Iran?). Bằng chứng nghiêm trọng nhất là việc chính quyền Bagdad đã không ngần ngại sử dụng những vũ khí bị cấm (vũ khí hoá học) đàn áp chính người dân Iraq, cho dù đó là người Kurd ở miền bắc hay người Hồi giáo Shiite ở miền nam.
2. Cũng về mặt bản chất, chính quyền Iraq hiện nay là một bộ máy nhà nước hiếu chiến và nguy hiểm nhất khu vực. Trong những năm 80, với sự ủng hộ của phương Tây, Iraq đã phát động cuộc chiến tranh Iran - Iraq đẫm máu và không thể không nhắc đến việc Saddam Hussein tấn công xâm lược Kuwait, nguyên nhân của chộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất.
3. Chính quyền Iraq, mặc dù bị cấm bởi các nghị quyết của LHQ, sản xuất và tàng trữ những vũ khí huỷ diệt hàng loạt và sẵn sàng sử dụng chúng nhằm chống lại chính người dân Iraq hoặc các nước trong khu vực (mà Israel là đối tượng hiển nhiên). Nếu như trước khi các thanh sát viên LHQ phát hiện ra việc Iraq cất giấu một số lượng lớn tên lửa có tầm bắn trên mức cho phép, lập luận này có vẻ mơ hồ thì hiện nay nó càng được củng cố đặc biệt với việc Iraq thừa nhận có cất giấu một số lượng lớn khuẩn than và chất độc hoá học và sinh học. Việc Iraq sản xuất và tàng trữ các loại vũ khí nguy hiểm này và việc chính quyền Bagdad bị cáo buộc có liên hệ với các tổ chức khủng bố quốc tế càng làm cho lập luận của Hoa Kỳ và đồng minh trở nên đáng xem xét.
4. Về tính pháp lý, việc chính quyền Saddam Hussein phớt lờ hoặc vi phạm một cách có ý thức 16 nghị quyết của LHQ kể từ năm 1991 chứng tỏ tính chất “ngoài vòng luật pháp” của chế độ này. Nghị quyết 1441 đã là cơ hội cuối cùng cho Saddam Hussein nhưng với những lần khân mà cộng đồng quốc tế đã chứng kiến thì rõ ràng là Bagdad đã không nắm được cơ hội cuối cùng để tránh được một cuộc chiến tranh. Theo lập luận của Hoa Kỳ và những nước ủng hộ hành động chiến tranh chống chế độ Saddam Hussein thì một nghị quyết mới cho phép sử dụng vũ lực để giải giáp Iraq là không cần thiết về mặt pháp lý nhưng về mặt chính trị, nghị quyết này là một thẻ bài cho sinh mạng chính trị của ông Blair tại Anh hay Aznar ở Tây Ban Nha. Ngoài phương diện pháp lý, một nghị quyết mới của HĐBA theo hướng đó sẽ đảm bảo tính chính đáng cho hành động quân sự của Hoa Kỳ và đồng minh.
5. Về những ảnh hưởng đối với khu vực, việc lật đổ chế độ độc tài của Saddam Hussein sẽ là bước đầu tiên cho tiến trình dân chủ hoá ngay tại Iraq và trong khu vực. Hiệu ứng đô-mi-nô dân chủ hoá sẽ lan rộng sang các nước Iran, nơi đang diễn ra cuộc tranh đấu gay gắt giữa thế lực Hồi giáo chính thống với phong trào cải cách dân chủ hoá do Tổng thống Khatami đứng đầu, sang Syria, nơi chế độ độc tài cha truyền con nối đang ngự trị, tới Ảrập Xêút, nơi ảnh hưởng của Hồi giáo wahhabite đang thống trị và là nguồn tài chính cho các tổ chức khủng bố quốc tế hay chính tại Ai Cập, nước đồng minh hàng năm nhận từ tay Hoa Kỳ một khoản viện trợ khổng lồ 3 tỷ đôla để duy trì chính quyền “độc tài ôn hoà” của tướng Hosni Mubarak.
Với những diễn biến gần đây nhất liên quan đến sự hợp tác tích cực của Iraq đối với LHQ, Hoa Kỳ và đồng minh lại càng nhấn mạnh đến các lập luận 1, 2 và 5.
Nếu như phe ủng hộ chiến tranh được hình thành một cách nhanh chóng và sớm có sự phối hợp ăn ý (cùng dự thảo nghị quyết tại HĐBA giữa Hoa Kỳ và Anh và sau đó là bộ ba Hoa Kỳ - Anh - Tây Ban Nha, lá thư kêu gọi ủng hộ chiến tranh do 8 nước châu Âu trong đó có Anh, Tây Ban Nha, Italia ký, việc Hoa Kỳ và các nước đồng minh tích cực vận động và triển khai lực lượng quân sự tại vùng Vịnh…) thì phe chống giải pháp quân sự có vẻ chậm chạp hơn và kém tổ chức hơn. Đóng vai trò “chevalier” (kỵ sĩ) tiên phong trong phe này là Pháp với vai trò đặc biệt quan trọng của cựu đại sứ Pháp tại LHQ, Jean-David Lévitte (hiện là đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Washington) trong các cuộc đàm phán chuẩn bị cho nghị quyết 1441 hồi tháng 11 năm ngoái. Nhưng khác với Hoa Kỳ, Pháp không thể đóng vai trò lãnh đạo phe chống chiến tranh như Hoa Kỳ có thể làm trong phe ủng hộ chiến tranh (xem bài về lợi ích của Pháp trong vụ việc Iraq). Những tập hợp ban đầu được thúc đẩy bởi chiến dịch ngoại giao của hai nước Đức và Pháp đã đi tới một tuyên bố chung Berlin - Paris với sự ủng hộ ban đầu của Bỉ và sau đó mở rộng thành “trục Paris - Berlin - Matxcơva”, một khái niệm làm cho các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế liên tưởng ngay đến cách tiếp cận địa chính trị đối lập các cường quốc lục địa (Đức, Nga, Pháp và có thể cả Trung Quốc) với các cường quốc đại dương và các quốc gia ven bờ (coastland hay rimland) (Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Tây Ban Nha…) được các học giả phương Tây (Anh và Hoa Kỳ) Mahan, MacKinder hay Spykman xây dựng từ những năm cuối thế kỷ 19 và từng có không ít ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Anh và Hoa Kỳ suốt hai thế kỷ vừa qua.
Lập luận chống chiến tranh của phe này chủ yếu bao gồm các điểm sau:
1. Ngược lại cách tiếp cận mang đậm nét hiện thực chính trị (realism) của phe chủ chiến, phe chống chiến tranh, với giọng điệu mang tính lý tưởng chủ nghĩa (idealism) hơn, biện hộ cho hoà bình thế giới. Theo các nước này, chiến tranh không phải là giải pháp duy nhất và tốt nhất để giải quyết vấn đề Iraq. Hoà bình vĩnh cửu, theo ngôn từ của Kant, mục tiêu của cộng đồng quốc tế không thể đạt được bằng chiến tranh đơn giản bởi vì chiến tranh có thể bắt đầu nhưng cũng có thể không có đoạn kết.
2. Theo các nước này, quan hệ quốc tế hiện đại vẫn dựa trên những nguyên tắc chính là chủ quyền và sự bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia. LHQ được xây dựng trên chính những nguyên tắc cơ bản này và trong hệ thống quan hệ quốc tế ngày nay với LHQ là trụ cột chính, ai có quyền phán xử rằng một nước nào đó không còn quyền được tôn trọng chủ quyền? Chấp nhận logic chiến tranh của Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc chấp nhận logic của kẻ mạnh, một logic không có chỗ cho các quốc gia nhỏ, yếu thậm chí cả các cường quốc hạng trung như Đức, Pháp, Nga hay Trung Quốc. Hoa Kỳ, trong cuộc chơi này sẽ vừa là quan toà vừa là cảnh sát.
3. Về tính nguy hiểm của chế độ Saddam Hussein, các nước phản đối chiến tranh ủng hộ lập luận cho rằng sau hơn 10 năm cấm vận, Iraq không còn đủ khả năng tấn công bất cứ một nước láng giềng nào. Và nếu thực sự những biện pháp trừng phạt và thanh sát vũ khí trong 10 năm qua là chưa đủ thì vấn đề hiện nay là tăng cường các biện pháp này nhằm đạt tới sự giải giáp hoàn toàn của Iraq chứ không thể là sự lựa chọn các biện pháp quân sự. Chiến lược đe doạ thường xuyên sẽ có hiệu quả và là lựa chọn hợp lý hơn chiến lược chiến tranh phòng ngừa được Hoa Kỳ nêu ra ngày 20/9/2002.
4. Về những ảnh hưởng của cuộc chiến tranh chống Iraq đối với an ninh, hoà bình khu vực và thế giới, các nước chống lại giải pháp quân sự cho rằng chiến tranh phá vỡ “cân bằng” vốn quá mong manh trong khu vực này và sẽ là điểm khởi đầu cho những xung đột không hồi kết trong khu vực. Ở cấp độ thế giới, cuộc chiến tranh sẽ là bước đi cuối cùng đẩy thế giới Hồi giáo đi vào cuộc đối đầu với phương Tây theo kịch bản mà S. Huntington đã chỉ ra cách đây gần một thập kỷ. Và trong viễn cảnh đó thì thế giới sẽ đi vào kịch bản của J. Rousenau về một thế giới đảo lộn chứ không phải là một thế giới ngự trị bởi dân chủ và thị trường theo cách lập luận của F. Fukuyama (xem bài về Tham vọng lãnh đạo thế giới của Hoa Kỳ).
5. Đáp lại lập luận của Hoa Kỳ và các đồng minh cho rằng những mối liên hệ giữa chính quyền Baghdad và các tổ chức khủng bố, các nước chống giải pháp quân sự cho rằng những bằng chứng mà Hoa Kỳ đưa ra không đủ sức thuyết phục. Ngày 14/2, ngay sau khi ông H. Blix cho rằng nhiều bằng chứng mà ông C. Powell nêu ra nhằm chứng minh sự tồn tại của vũ khí huỷ diệt hàng loạt tại Iraq là “không có cơ sở” thì ông D. de Villepin đã phát biểu: “Cách đây 10 ngày ông Powell đã đề cập đến những liên hệ nghi ngờ giữa khủng bố và chế độ Baghdad. Trong tình hình nghiên cứu và tìm kiếm thông tin hiện nay của chúng tôi với sự cộng tác của các đồng minh, không có bất cứ cơ sở nào cho phép thiết lập những mối liên hệ như vậy”.
6. Cuối cùng các nước trong “trục” chống chiến tranh lớn tiếng vạch trần những lợi ích thực sự của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh mà Hoa Kỳ muốn phát động chống lại chính quyền Iraq. Ngoài tham vọng lãnh đạo thế giới mà các chính quyền Hoa Kỳ từ lâu đã công khai khẳng định, các nước này cho rằng các mục tiêu khác của Hoa Kỳ trong cuộc chiến hoàn toàn “nhập nhằng” và không đủ khả năng thuyết phục để có thể biện minh cho việc sử dụng vũ lực chống Iraq. Những tính toán chính trị và kinh tế nội bộ Hoa Kỳ đang ẩn sau những gì mà Hoa Kỳ và các đồng minh tung hứng: lợi ích dầu lửa, hoàn tất những gì chưa thể làm năm 1991, thoả mãn long tự ái của người Mỹ sau sự kiện 11/9, hay thậm chí là việc tránh cho ông Bush thảm hoạ “mất mặt” trước chiến dịch tái tranh cử vào năm tới trong trường hợp phải rút lui con số 250.000 quân đang đóng tại vùng Vịnh.
Rõ ràng, dù chống chiến tranh hay ủng hộ, mỗi một quốc gia trong cuộc chơi này đang theo đuổi một lợi ích riêng. Những lợi ích đó có tương đồng hay không mới là chất xúc tác để họ xích lại gần nhau và thậm chí sát cánh cùng nhau. Ngay cả việc sát cánh cùng nhau đó bền vững chừng nào cũng còn tuỳ thuộc và tính toán lợi ích của mỗi bên trong liên minh. Việc hình thành “trục Paris - Berlin - Matxcơva” là một động thái mới trong tập hợp lực lượng quan hệ quốc tế. Nhưng tập hợp này liệu có bền vững, câu trả lời chỉ có thể có qua việc xem xét lợi ích của từng bên chứ không chỉ dừng lại ở những gì họ nói ra.
Về khả năng cuộc chiến chống Iraq, bây giờ không còn là lúc trả lời câu hỏi liệu chiến tranh có xảy ra hay không mà là khi nào. Ông S. Degallaix, cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam, hiện là cố vấn ngoại giao của Thủ tướng Pháp khẳng định cuộc chiến sẽ sớm nổ ra để ông Bush còn có đủ thời gian chuẩn bị cho một nhiệm kỳ mới.
Sẽ là rất thú vị nếu cuối cùng chúng ta cùng đọc lại những gì một tác giả viết về khả năng can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở bên ngoài : “…Hội chứng Việt Nam vẫn còn rất sống động. Giới quân sự chỉ muốn sử dụng vũ lực khi tất cả mọi người đồng tình. Những điều kiện đặt ra đòi hỏi một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc trước khi có thể sử dụng vũ lực. Không một tuyên bố chiến tranh nào sẽ có thể mà không có một sự kiện mang tính chất xúc tác như trận Trân Châu cảng”.
VŨ