Đầu những năm 1830, thị trấn New Salem dọc theo sông Sangamon, bang Illinois là đô thị khá sầm uất với dân số khoảng 100 người. Một buổi sáng tháng 7/1831, thanh niên mảnh khảnh có đôi mắt sâu bước vào New Salem với chiếc áo khoác rách bươm và đầu đội mũ rơm. Ít ai ngờ rằng, chàng trai vừa bỏ nhà đi với không một xu dính túi, sau này trở thành Tổng thống thứ 16 của Mỹ, Abraham Lincoln.
Trong những ngày đầu khốn khó và suốt quãng đời ở Salem, ông luôn được chào đón tại căn nhà gỗ khiêm tốn của vợ chồng Hannah và Jack Armstrong. Tuần đôi ba lần, Lincoln đều đến đây ăn uống, chuyện trò và ngủ qua đêm, trông trẻ cho Hannah và giúp Jack bổ củi.
Năm tháng trôi qua một cách nhẹ nhàng, Lincoln được bầu vào Cơ quan lập pháp và bắt đầu thực hành luật. Vợ chồng Hannah vẫn ở lại thị trấn, và bé William Duff Armstrong, con họ, đã trở thành thanh niên mạnh mẽ, tốt bụng và hào phóng, nhưng khá hoang dại liều lĩnh.
Đêm 29/8/1857, trong một cuộc cắm trại, William say rượu nằm trên bãi đất và bị James P. Metz ker cũng đang say, nắm cổ chân kéo đi, như kiểu trêu đùa. William lơ mơ ngủ, giật mình, đánh trả dữ dội.
Sau vài cú đánh, hai người tách ra khi Metzker lại ẩu đả với Norris, một gã say khác. Sau đó, ba người giảng hoà, uống với nhau thêm vài ly và Metzker lên ngựa về nhà. Ba ngày sau, anh ta chết, nguyên nhân được cho là hai vết bầm lớn ở đầu và mắt phải.
William và Norris bị bắt và buộc tội Giết người. Đây là điều đau đớn với cha mẹ William. Người cha vốn ốm yếu, đổ bệnh chết sau đó không lâu, dặn vợ tích cóp tiền cứu con.
Khi này, Lincoln đã rời New Salem, kết hôn, bận rộn với công việc mới, được bầu vào Quốc hội, và là một trong những luật sư giỏi nhất và những nhân vật quan trọng nhất bang Illinois. Nghe về biến cố ập đến với gia đình ân nhân, ngày 18/9/1857, Lincoln viết thư cho bà Hannah đề nghị được bào chữa miễn phí cho con trai bà.
Norris khi bị xét xử trong phiên toà tháng 5/1958 đã khai mình và William cùng đánh Metzker nhưng những cú đánh gây ra cái chết của nạn nhân thuộc về William. Norris khi đó bị kết án 8 năm tù.
Luật sư Lincoln xem xét cẩn thận hồ sơ của lời khai được trình bày trong phiên tòa xét xử Norris và do đó, biết về cơ bản bằng chứng chống lại thân chủ của mình là người đàn ông tên là Allen đã tuyên bố thấy William tấn công Metzker vào đầu bằng súng cao su. Lincoln mỉm cười khi đọc những dòng này.
Ngày 7/5/1858, công chúng nô nức đổ đến xem phiên xét xử William, nhưng phần lớn do danh tiếng của luật sư Lincoln.
Nhân chứng Allen được gọi đến, hết lời thề thốt đã thấy bị cáo tấn công Metzker bằng khẩu súng cao su to. "Hôm đấy trăng rất sáng nên tôi thấy rõ ràng tất cả mọi thứ đã xảy ra", Allen khẳng định. Anh ta cho rằng Norris tiếp tay cho cuộc tấn công, nhưng William mới là sát nhân thực sự.
Phòng xử bỗng chết lặng, ngột ngạt. Các bồi thẩm viên ngả lưng vào ghế của họ như thể vụ việc đã kết thúc. Khán giả gật đầu và rỉ tai nhau rằng giá treo cổ không còn xa William. Vị công tố nhìn luật sư bào chữa vẻ thách thức.
Lincoln điềm tĩnh bước lên, mời nhân chứng trở lại và kể lại mọi chuyện và dồn anh ta với nhiều chi tiết. "William dùng loại vũ khí gì? Anh ta cầm tay nào? Đánh vào bên nào trên đầu nạn nhân? Bị cáo hôm đấy mặc quần áo như thế nào?"...
Nhân chứng bắt đầu lúng túng, cho biết khi đó khoảng hơn 23h, và anh ta đứng cách vụ ẩu đả khoảng 50 m. "Tôi chỉ nhớ trăng hôm đó tròn và rất sáng, gần như ban ngày", Allen vẫn khăng khăng về chi tiết ánh trăng.
Khi anh ta kết thúc, Lincoln đột nhiên rút từ trong túi cuốn niên giám năm 1857, và trỏ ngón trỏ dài vào ngày 29/8, đêm xảy ra án mạng. Ông đưa cho nhân chứng và yêu cầu nói to cho bồi thẩm đoàn biết, mặt trăng hôm đó đang ở giai đoạn nào, theo lịch?
Phòng xử lại thêm một lần chết lặng khi Allen đọc chi tiết trên cuốn lịch: Hôm đó trăng khuyết gần như toàn phần. Nhân chứng khó có thể nhìn xa 5 m, chứ chưa nói 50 m. Cuộc đối chất đầy kịch tính đến nỗi phiên toà đã phải hoãn ngay lập tức.
Tuy nhiên, các công tố viên không dễ bỏ cuộc và cố gắng kiếm thêm một loạt nhân chứng, dù không người nào tận mắt chứng kiến sự việc. Họ quay sang chỉ trích William và đám bạn du thủ du thực là "đạo tặc" và tha thiết yêu cầu tử hình bị cáo.
Mọi ánh mắt lại đổ dồn về Lincoln và những lời bào chữa đanh thép quen thuộc trong hàng chục vụ án trước đây dân chúng từng đi xem. Vẫn với vẻ điềm đạm, Lincoln cởi áo khoác, bước lên đầu đài, cúi nhìn khán phòng chật ních.
"Đầu tiên, tôi muốn nhấn mạnh, tôi không nhận tiền trong vụ bào chữa này", ông nói và cố tình quay sang liếc nhìn công tố viên đặc biệt của bang, người rõ ràng được trả lương cao nhất trong vụ án.
Lincoln chuyển sang giọng tâm tình, kể về 6 năm được cưu mang bởi gia đình William, những nông dân bần cùng nhưng lương thiện và hào hiệp ai ai cũng biết, hoàn toàn không đáng bị gọi là "đạo tặc". Sau đó, trong một thời gian ngắn, luật sư tiếp tục thảo luận về chứng cứ nguỵ tạo trong vụ án.
Những đồng sự đến xem "màn trình diễn" của Lincoln sau này còn kể lại bằng vẻ thán phục: "Những lập luận của anh ấy như lời thôi miên, vừa quyết liệt, vừa đầy xúc cảm". Khi Lincoln ngồi xuống, nhiều bồi thẩm viên đã rơi nước mắt. Bà Hannah già nua lặng lẽ khóc.
Trong giờ giải lao, Lincoln ngồi bên bà, nói chắc nịch: "Họ sẽ xóa tội cho William trước khi trời tối". Bà mẹ không chịu nổi áp lực đợi chờ, chạy ra ngoài ngóc thút thít dưới một gốc cây.
Khi nghe chuông báo tuyên án, bà thở dốc chạy đến tòa án và gặp Lincoln ở ngay bậc thang. Ông cười nhưng mặt đẫm nước mắt, chỉ tay về phía đằng Tây bông đùa: "William tự do rồi, và mặt trời còn chưa lặn nhé".
Tháng 11/1860, Lincoln được bầu làm Tổng thống thứ 16 của Mỹ, nổi tiếng với Tuyên ngôn Giải phóng, mở đường cho việc xóa bỏ chế độ nô lệ. Ông bị ám sát tại Nhà hát Ford ở Washington ngày 14/4/1865, quan tài được đưa lên tàu, đi qua 180 thành phố và 7 tiểu bang để những người thương tiếc có thể bày tỏ lòng kính trọng đối với tổng thống.
Lincoln được hậu thế tôn vinh anh hùng dân tộc, hy sinh vì quyền tự do của con người; là một trong 4 tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử, được khắc chân dung lên núi đá Rushmore, cùng Georges Washington, Thomas Jefferson và Theodore Roosevelt.
Hải Thư (Theo American Bar Association Journals, History)