Theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Như vậy, đối với tài sản chung vợ chồng thì vợ, chồng chỉ được lập di chúc định đoạt phần tài sản của họ (một nửa) trong khối tài sản chung vợ chồng.
Theo Điều 650, 651 Bộ luật Dân sự thì trường hợp không có di chúc, di chúc không hợp pháp... thì di sản thừa kế của người chết sẽ được chia theo pháp luật. Việc chia thừa kế theo pháp luật được thực hiện theo hàng thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
Với quy định nói trên, trường hợp cha bạn đột ngột qua đời mà không để lại di chúc thì người con riêng vẫn được hưởng thừa kế mà cha bạn để lại.
Trường hợp cha bạn lập di chúc chỉ định cho bồ nhí và con riêng được hưởng thừa kế mà bản di chúc được xác định là hợp pháp thì họ được hưởng thừa kế theo di chúc. Phần thừa kế cụ thể là bao nhiêu (%) mà bồ nhí và con riêng được hưởng phụ thuộc vào nội dung di chúc mà cha bạn để lại cũng như số người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Cụ thể, Điều 644 Bộ luật Dân sự quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như sau:
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.
Quy định trên cũng đồng nghĩa trường hợp mẹ bạn và con chung của bố mẹ bạn (chưa thành niên hoặc không có khả năng lao động) thì những người này vẫn đương nhiên được hưởng thừa kế theo khoản 1 Điều 644 nói trên mà không phụ thuộc nội dung di chúc.
Điều 625 Bộ luật Dân sự quy định cá nhân có quyền lập di chúc để để định đoạt tài sản của mình. Do vậy, các chủ thể khác có nghĩa vụ tôn trọng, không có quyền hạn chế, phản đối việc người khác lập di chúc.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty luật Bảo An, Hà Nội