Hôm nay là "Lễ kỷ niệm 45 năm hành trình tiến tới lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot" (20/6/1977 – 20/6/2022) và chúng ta tổ chức khánh thành một số hạng mục trong khu tưởng niệm ở khu Koh Thmar X16 ở huyện Memot, tỉnh Tbong Khmum.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn tới ngài Phạm Minh Chính, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu đến dự buổi lễ, gặp gỡ người dân Campuchia và khánh thành một số hạng mục trong khu tưởng niệm này.
Cảm ơn Thủ tướng Phạm Minh Chính đã cho tôi thắp hương và gặp gỡ những người dân Việt Nam đã cứu mạng tôi 45 năm về trước.
Nhân đây, tôi xin đưa ra một số câu hỏi để các đại biểu trong và ngoài nước cùng thảo luận và làm rõ.
Câu hỏi thứ nhất: tôi có nên sang Việt Nam hay không? Nếu tôi không sang Việt Nam tìm đường cứu nước, rõ ràng tôi sẽ chết và không rõ diễn biến sau này sẽ thế nào vì thời kỳ đó, không ai có thể xin gì từ Pol Pot... Pol Pot có thể giết hết mọi người.
Câu hỏi thứ hai: hành trình này dẫn đến đâu? Hành trình tiến tới lật đổ chế độ Pol Pot đã mang lại hòa bình, tiến tới Hiệp định hòa bình Paris, tiếp tục tiến tới thắng lợi cuối cùng là thực hiện chính sách "Thắng - Thắng" hòa hợp và độc lập dân tộc, vượt qua mọi khó khăn để trở thành nước có thu nhập trung bình, với tỷ lệ đói nghèo dưới 10%.
Năm nay là lễ kỷ niệm 45 năm hành trình của tôi và cũng kỷ niệm 55 năm quan hệ ngoại giao hai nước. Tôi cần giải thích để mọi người hiểu là tôi có 4 lựa chọn vào thời điểm đó:
Thứ nhất là sử dụng lực lượng khoảng một trung đoàn của tôi với khoảng 2.000 người, sau này bị chia nhỏ và một số bị giết. Tôi có thể chỉ huy 1.500 người tấn công huyện Memot. Tuy nhiên, cách này rất liều lĩnh và lực lượng của tôi có thể bị tiêu diệt sau vài tuần.
Lựa chọn thứ hai là sang Việt Nam để xây dựng lại lực lượng.
Thứ ba là không làm gì cả để Pol Pot giết, còn lựa chọn cuối cùng là tự sát.
Cuối cùng tôi đã quyết định tìm đường sang Việt Nam để xây dựng lại tổ chức kháng chiến. Để đưa ra lựa chọn này là rất khó khăn bởi tôi phải rời xa tổ quốc, rời xa người vợ đang mang thai 5 tháng, không phải chuyện đùa đối với một thanh niên mới chỉ 25 tuổi như tôi hồi đó. Tuy nhiên, chỉ khoanh tay nhìn hay để Pol Pot giết hại hoặc tự sát đều không phải lựa chọn tốt. Dù chỉ có 1% hy vọng, hoặc ít hơn tôi vẫn phải làm việc này.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tổng kết rất rõ ràng về quan hệ giữa hai nước chúng ta trong giai đoạn lịch sử này. Những năm 1970, lực lượng Campuchia rất nhỏ, quân đội Việt Nam là chủ lực, luôn đi trước tấn công, quân đội Campuchia đi sau...
Trong 5 người chúng tôi sang Việt Nam thời đó, 2 người đã mất. Tôi đã quyết định đúng khi không đưa cả trung đoàn sang mà chỉ đưa một số người, trong đó có 4 người sắp bị Pol Pot bắt. Nếu mang nhiều người sẽ bị hiểu lầm là mang quân sang tấn công Việt Nam, bởi lúc đó Pol Pot đã tấn công một số khu vực của Việt Nam.
Đó là thời điểm rất nguy nan. Khi sang đến Việt Nam, tôi nhìn về phía Campuchia và nước mắt lưng tròng, tự nghĩ 13 tuổi đã phải rời xa gia đình do không có trường học và 25 tuổi phải rời bỏ tổ quốc. Sáng nay, lúc thắp hương tại địa điểm dừng chân khi vào Việt Nam, tôi đã khóc...Tôi không cầm được nước mắt vì những đau khổ của mình 45 năm trước.
Tôi tưởng mình sẽ bị bắt lúc vào Việt Nam, nhưng ngược lại tôi lại được chào đón và được mời ăn bữa cơm do người Việt Nam nấu... Chúng tôi hồi ấy không được ăn cơm đã hơn một năm rồi.
Khi rời Campuchia sang Việt Nam, tôi phải viết thư cho vợ, một bức thư rất khó viết, vì tôi không dám viết trong thư sẽ đi đâu, không rõ khi viết xong bức thư này có chết hay không, hoặc khi sang bên kia biên giới bị đánh úp bởi một lực lượng nào đó...
Tôi không phải là người chỉ huy quân đội mà là người thành lập quân đội. Việt Nam đã đồng ý cho tôi xây dựng lực lượng sau khi tôi gặp ngài Trần Văn Trà, lúc đó là Tư lệnh Quân khu 7, và ngài Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 27/9/1977. Ngài Trần Văn Trà nói với tôi Việt Nam chỉ hỗ trợ về hậu cần, huấn luyện, còn Campuchia chịu trách nhiệm về chính trị. Tôi nói không ai hiểu rõ người Campuchia hơn người Campuchia và tôi chính là người soạn giáo trình cho quân đội.
Việt Nam đã dành đất gìn giữ hài cốt quân nhân chúng ta ở Việt Nam. Bây giờ chúng ta nên xem xét có nên mang hết số hài cốt đó về Campuchia và chôn cất tại khu vực lịch sử này hay không. Việt Nam đã và đang hồi hương hài cốt quân nhân Việt Nam, chúng ta cũng nên hồi hương hài cốt của các chiến sĩ Mặt trận đoàn kết cứu quốc Campuchia.
Tháng 5/1978, chúng tôi đã bắt tay cùng các nhóm nổi dậy của Samdech Heng Sam-rin và Samdech Chia Xim để mở rộng lực lượng kháng chiến, kết hợp với các lực lượng yêu nước khác thành lập Mặt trận đoàn kết cứu quốc của Campuchia vào ngày 2/12/1978.
Thông qua việc thành lập Mặt trận này, ta đã tiến tới giải phóng đất nước vào ngày 7/1/1979, và lịch sử cũng khắc ghi về sự can thiệp của quân đội Việt Nam để cứu người dân Campuchia khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot. Muốn biết việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia đúng hay sai thì hãy hỏi Tòa án hỗn hợp Liên Hợp Quốc và Campuchia. Bản án của tòa án này đối với bè lũ Pol Pot là sự công nhận của Liên Hợp Quốc rằng hành động của Việt Nam là đúng đắn, nếu hành động của Việt Nam không đúng, cần gì phải xét xử bọn Khmer Đỏ.
Một số người nói rằng tôi là người dẫn quân đội Việt Nam vào "giết hại" nhân dân Campuchia, vậy xin hỏi có bao nhiêu người dân Campuchia bị Việt Nam giết hại? Hay là khởi đầu từ chỗ nhân dân Campuchia chỉ có 5 triệu người, ngày nay đã lên đến 17 triệu, như vậy sau 45 năm kể từ khởi đầu hành trình cứu nước của tôi thì dân số của Campuchia đã tăng thêm 12 triệu.
Một số người nói tôi có tội khi dẫn quân đội Việt Nam vào Campuchia. Giờ hãy đi hỏi Tòa án hỗn hợp Liên Hợp Quốc và Campuchia, được Hội đồng Bảo an lập ra để xét xử Khmer Đỏ về tội ác chống lại loài người...
Nhờ Việt Nam giúp đỡ cứu tính mạng người dân Campuchia, dù chúng ta phải chịu sự bất công trong một thời gian dài khi nhà nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia bị Liên Hợp Quốc áp đặt trừng phạt, Việt Nam cũng bị "trừng phạt" với cáo buộc xâm lược Campuchia. Tuy nhiên, giờ đây Việt Nam đã được nhận lại công lý cùng với đảng Nhân dân Campuchia. Thành công của việc xét xử Khmer Đỏ đã mang lại công bằng cho lực lượng kháng chiến của Campuchia với sự hỗ trợ của quân tình nguyện Việt Nam.
Tôi xin khẳng định không phải Việt Nam rút quân sau Hiệp định Hòa bình Paris và cần làm rõ điểm này. Việt Nam rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia vào ngày 30/9/1989, nghĩa là trước Hiệp định Hòa bình Paris hai năm.
Đó là thời điểm ta đang xây dựng lực lượng của mình, tuy nhiên chúng ta có kể kiểm soát được tình hình... Khi quân đội Việt Nam rút khỏi Campuchia, mặt quốc tế được giải quyết, chỉ còn lại mặt nội bộ, mang lại cho Campuchia cơ hội cho nhiều bên liên quan, kể cả các Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, cùng tham gia để đạt được Hiệp định Hòa bình Paris. Đây là điểm lịch sử mà ta cần nhắc lại, bởi một số người cho rằng Việt Nam rút quân là do Hiệp định Hòa bình Paris. Điều này không đúng với tình hình thực tế ở Campuchia...
Nhiều năm qua, Việt Nam và Campuchia luôn nỗ lực trong công tác biên giới, nhờ đó chúng ta đã ký văn kiện công nhận thành quả 84% phân giới cắm mốc và đang tiếp tục thảo luận giải quyết 16% còn lại.
Một số người nói rằng Hun Sen "chịu ơn" Việt Nam và phải cắt đất cho Việt Nam. Nếu tôi cắt đất cho Việt Nam thì đã không cần phải bỏ ra thời gian 41 năm để đàm phán với Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn đất Campuchia thì Việt Nam đã lấy từ khi còn có quân đội ở Campuchia.
Vào thời điểm đó, mặc dù Việt Nam đóng quân ở Campuchia, tôi với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao đã ký kết Hiệp ước vùng nước lịch sử. Chúng ta cũng đã ký Hiệp định về quy chế biên giới năm 1983 và Hiệp ước về hoạch định biên giới năm 1985, cũng như các hiệp ước bổ sung năm 2005 và 2019.
Tôi xin khẳng định tôi không có quyền cho Việt Nam đất, dù chỉ một milimet, và tôi cũng không muốn đất Việt Nam dù chỉ một milimet... Việt Nam không có nhu cầu lấy đất của ta, ta cũng không có nhu cầu lấy đất Việt Nam.
Như Thủ tướng Phạm Minh Chính nói, trong 5 tháng đầu năm 2022, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Campuchia đã đạt trên 5 tỷ USD. Trước khi có đại dịch Covid-19, chúng ta chỉ đề ra mục tiêu 5 tỷ USD cho cả năm, nhưng nay đã đạt được hơn 9 tỷ USD. Hy vọng rằng năm nay kim ngạch thương mại song phương sẽ đạt trêm 10 tỷ USD bởi đường biên giới của chúng ta là đường biên giới hòa bình, hợp tác để phát triển.
Khu vực giữa tỉnh Tbong Khmum và Bình Phước sau này có thể mở cửa khẩu quốc tế, dù vẫn còn một số việc cần làm cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng. Tôi đã quyết định giữ lại 1.176 hecta ở khu vực này để dự phòng mở khu kinh tế đặc biệt, xây dựng nhà máy hoặc sau này có thể trở thành nơi trao đổi hàng hóa, bởi khu vực này gần với cảng biển của Việt Nam... Tôi đề nghị hai bên xem xét về một số cơ chế và một số quy định đặc biệt đối với khu vực này..., tạo điều kiện cho người dân hai bên qua lại.
Trước khi buổi lễ bắt đầu, tôi đã sang phía Việt Nam, gặp gỡ những người đã cưu mang, giúp đỡ tôi vào thời điểm đó. Đối với tôi, một bữa cơm thời đó có giá trị bằng hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu tấn gạo của ngày hôm nay. Chính vì vậy nên tôi mới nói rằng: "Gian nan mới biết bạn hiền, hoạn nạn mới hiểu lòng nhau"... Chúc mối quan hệ Campuchia - Việt Nam mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững.