Chiều 20/5, Quốc hội nghe báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến người dân và chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Báo cáo do Trưởng ban biên tập dự thảo Phan Trung Lý trình bày đã nêu chi tiết về toàn bộ các nội dung sửa đổi Hiến pháp.
Về tên nước, theo ông Lý, qua tổng hợp, có nhiều ý kiến đóng góp về vấn đề này chủ yếu với 2 luồng ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất đa số ý kiến đề nghị tiếp tục quy định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tên gọi này ra đời trong bối cảnh nước ta vừa hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước, khẳng định rõ con đường, mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
"Việc thay đổi tên nước trong thời điểm hiện nay sẽ dẫn đến những hệ quả không có lợi, thậm chí có thể bị xuyên tạc là đang xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội và làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính, gây tốn kém, phức tạp", ông Lý nói.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị lấy lại tên gọi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vì tên gọi này gắn liền với sự ra đời của chính thể cộng hòa đầu tiên ở nước ta, là thành quả của cuộc cách mạng giành độc lập tháng 8/1945. Tên gọi này được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, thể hiện rõ thể chế chính trị của nước Việt Nam là cộng hòa, bản chất là Nhà nước dân chủ.
"Ý kiến này cho rằng, việc lựa chọn tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không làm ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta vì Lời nói đầu cũng như các quy định khác của Dự thảo đều khẳng định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội", ông Phan Trung Lý dẫn báo cáo.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp nhận thấy, tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thể hiện rõ chính thể của nước ta là cộng hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ.
"Tuy nhiên, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm tiếp tục khẳng định mục tiêu, con đường xây dựng và phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm tính ổn định, tránh việc phải thay đổi về quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên các văn bản, giấy tờ. Hơn nữa, trải qua 37 năm, tên gọi này đã trở nên quen thuộc đối với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế”, Trưởng ban biên tập Phan Trung Lý trình bày.
Về sở hữu đất đai (Điều 57), có tới có 3 loại ý kiến. Ngoài ý kiến tán thành với quy định của Dự thảo, luồng ý kiến thứ hai đề nghị đa dạng hóa sở hữu đất đai, trong đó có sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhân về đất ở; còn ý kiến thứ ba đề nghị tách điều 57 thành hai điều. Một điều quy định về sở hữu toàn dân, một điều quy định về sở hữu nhà nước. Ý kiến này cho rằng, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đất đai là tài nguyên quốc gia - thuộc sở hữu toàn dân với những đất đai mà toàn dân đã giao cho Nhà nước - chủ thể cụ thể quản lý, sở hữu.
Theo Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, quy định đất đai, các tài nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý... thuộc sở hữu toàn dân là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã được xác định từ năm 1980. Vấn đề sở hữu về đất đai không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị - xã hội.
Để làm rõ hơn nội dung này, dự thảo đã xác định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Vì vậy, đề nghị giữ nguyên cách dùng khái niệm “sở hữu toàn dân” và không quy định đa sở hữu về đất đai.
Thu hồi đất (Điều 58) là vấn đề quan trọng, vừa liên quan đến quyền sở hữu toàn dân về đất đai, vừa liên quan đến quyền của người sử dụng đất. Do đó, Ủy ban đề nghị Quốc hội quy định cơ chế thu hồi đất vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không đặt vấn đề trưng mua vì tổ chức, cá nhân chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu. Tuy nhiên, để bảo đảm việc thu hồi đất không bị lạm dụng, đề nghị bổ sung quy định về nguyên tắc của việc thu hồi, bồi thường, đó là "việc thu hồi đất phải có bồi thường, công khai, minh bạch, công bằng theo quy định của pháp luật"; nội dung cụ thể về điều kiện và thể thức thu hồi, bồi thường sẽ được xác định trong luật.
Về trường hợp thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội, Ủy ban này nhận thấy, đất đai là nguồn lực quan trọng cần được khai thác, sử dụng hiệu quả nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Vì vậy, việc thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết.
Tuy nhiên, để tránh việc thu hồi đất tràn lan, dự thảo quy định "Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Các trường hợp thu hồi đất do luật định. Việc thu hồi đất phải có bồi thường, công khai, minh bạch, công bằng theo quy định của pháp luật".
Nguyễn Hưng