![]() |
Săn chim moa, con vật có thể cao tới 3,5 mét. |
Một thời, những sinh vật giống như đà điểu này đã chạy nhảy hạnh phúc, tự do và tấp nập trên Vùng đất của Mây trắng dài - "Aotearoa", cái tên theo tiếng Maori của New Zealand. Rồi một ngày định mệnh khoảng 700 năm trước, những người đầu tiên xuất hiện.
Từ Hawaii, người Polynesia tới đây bằng xuồng và đã tìm thấy một loài chim không biết bay rất dễ giết, cao tới 3,5 mét và nặng 250 kg - một nguồn thịt tươi vô cùng hào phóng. Chỉ trong hai thế kỷ, người Maori đã săn bắt những sinh vật khổng lồ này đến chỗ tuyệt chủng. Chim moa, giống như dodo, trở thành biểu tượng của tính tham lam của loài người, hay nói theo lối hiện đại, là một ví dụ điển hình cho sự phát triển không bền vững.
Song một nghiên cứu mới đây của các chuyên gia phân tử đã làm nảy sinh nghi ngờ về câu chuyện dễ chịu này, chẳng hạn người Maori có bị buộc tội quá đáng hay không. Chim moa, theo các nhà nghiên cứu, rõ ràng đã rơi vào tình trạng suy thoái nhanh chóng trước khi con người đặt chân đến New Zealand, và đã quá ư thương tổn từ trước lúc nhận những mũi giáo đầu tiên.
Một nhóm nhà sinh học dẫn đầu bởi Neil Gemmell thuộc Đại học Canterbury của New Zealand đã lấy ADN ty thể (vật liệu di truyền từ mẹ sang con) từ những bộ xương được bảo quản của Dinornis - loài lớn nhất trong số 10 loài chim moa. Tiếp đó, họ đưa trình tự ADN tìm được vào một mô hình máy tính dựa trên đột biến - hiện tượng xảy ra với mỗi thế hệ khi có sự pha trộn quần thể.
Bằng cách kiểm tra những thay đổi gene bé nhỏ này, các nhà khoa học có thể "vặn ngược" chiếc đồng hồ phân tử để tìm hiểu sự tiến hoá của các loài chim moa theo thời gian. Từ đó, họ cũng có thể ngoại suy ra dân số của mỗi quần thể, theo tiêu chí: quần thể càng lớn, đa dạng gene càng nhiều.
Sau khi tổng hợp các dữ liệu, nhóm của Gemmell đã đi đến một dự đoán "thận trọng" về số lượng của những con chim này. Vào khoảng 1.000 năm trước, có thể đã có hàng trăm nghìn chim moa thuộc loài Dinornis ở New Zealand. Với 9 loài chim moa còn lại, ước tính trong khoảng 1.000 đến 6.000 năm trước, có từ 3 triệu đến 12 triệu con trên các hòn đảo Bắc và Nam của quốc gia này.
Những quần thể như vậy lớn hơn nhiều so với dân số ước tính của chim moa - khoảng 159.000 con - tại thời điểm ngay trước khi loài người đặt chân đến Vùng đất Mây trắng Dài.
Tại sao quần thể chim moa xuống dốc như vậy trước khi có sự định cư của con người?
Ở đây, Gemmell đã đưa ra một cặp giả thuyết mới. Một trong số đó là sự phun trào núi lửa. Thảm họa tự nhiên này lặp lại và đã triệt hạ những con chim moa trong vùng, đặc biệt quanh hồ Taupo, trái tim của đảo Bắc New Zealand. Một giải thích khác thuyết phục hơn là số lượng chim moa sa sút nhanh chóng do những trận dịch bệnh, như cúm gia cầm, ỉa chảy hoặc bệnh lao phổi, do các loài chim di cư từ Australia và những nơi khác mang tới.
Cũng có khả năng các loài chim này sẽ phục hồi trở lại nếu như con người không can thiệp vào cuộc sống của chúng, phá huỷ lãnh thổ và suy giảm dân số của chúng bằng việc săn bắn. Nhưng theo các nhà nghiên cứu, bằng chứng này cho thấy cái chết của chim moa là "phức tạp và bị che phủ theo thời gian", chứ không phải là kết cục một chiều, đơn giản.
"Nếu phỏng đoán mới của chúng tôi về số lượng chim moa là đúng, chúng ta cần phải xem xét lại những yếu tố có thể có ảnh hưởng đến những quần thể này trước khi con người xuất hiện, và có lẽ sẽ nhìn nhận được những vấn đề bảo tồn rõ ràng hơn từ các bài học trong quá khứ".
Thuận An (theo Reuters)