Máy bay Mỹ thường ném bom Hà Nội khiến gia đình chú Túc ở Hà Nội, có 2 con cùng tuổi tôi, cũng phải sơ tán về ở nhà bác tôi.
Lúc đó làng tôi không có điện, không có đài, báo, buổi tối không dám thắp đèn dầu vì sợ bị máy bay Mỹ phát hiện sẽ tới ném bom. Vào mùa hè, sau khi ăn tối, chúng tôi trải chiếu ra sân ngồi hóng mát và nói chuyện, đố vui hay hát. Hôm nào có trăng thì ngồi tới 10 giờ tối mới đi ngủ.
Bọn trẻ con rất thích nghe chú Túc kể chuyện, mà tôi nhớ nhất là câu truyện "Những người khốn khổ". Mỗi tối chú kể một đoạn. Lần đầu tiên bọn trẻ con chúng tôi được nghe những tên nước ngoài như ông Giăng Văn Giăng, cô Cô Dét, thanh tra Gia Ve, thành phố Paris…, được nghe những câu chuyện về lòng nhân ái, tình thương yêu của ông Giăng Văn Giăng với Cô Dét, lòng dũng cảm của cậu bé Ga Vơ Rốt… được giải thích về những ngôn từ lạ như tự do, bình đẳng, bác ái, cách mạng dân chủ, được biết về những vật dụng lạ như chân nến bằng bạc, dùi cui… nghe những từ ngữ lịch sự mà xa lạ như "Thưa quý ngài", "Kính gửi đức ông" …
Bọn trẻ chúng tôi ngồi im lặng trong đếm tối thanh vắng, có tiếng muỗi vo ve, thỉnh thoảng lại nghe như có tiếng bom đạn ở đâu vọng về, say sưa nghe kể chuyện. Những tâm hồn và hành động cao thượng của các nhân vật trong "Những người khốn khổ" mà ông Túc kể thật là hấp dẫn đối với tôi. Lúc đó tôi mơ ước có dịp sẽ tìm đọc những cuốn truyện này.
![]() |
Văn học Pháp có sức lôi cuốn mạnh mẽ với tôi qua những câu văn đầy âm thanh và màu sắc, qua tinh thần nhân văn, tự do phóng khoáng và trào phúng. Ảnh minh họa: wikipedia |
Gửi bài dự thi "Nước Pháp tôi yêu" của bạn |
Đến lúc đi học và đi làm, tôi dành dụm được tiền để mua hoặc thuê mượn truyện của Pháp về đọc. Trước năm 1980, tôi rất khó tìm được các tác phẩm của Pháp vì có lẽ chúng ít được dịch và phát hành ở Việt Nam. Đến năm 1985, tôi mới mua được 4 tập truyện "Những người khốn khổ" do NXB Văn Học phát hành.
Cầm cuốn truyện bìa mềm, in trên giấy đen trên tay, tôi như thấy lại ước mơ tuổi thơ của mình và đọc ngấu nghiến. Qua những câu văn tuyệt diệu, những nhân vật mà tôi ngưỡng mộ dần dần chiếm lĩnh tâm hồn tôi. Tôi như thấy cuộc sống trở nên thi vị hơn, cuốn hút hơn, và tôi cố học theo cách quan sát tinh tế, cách nhận xét chi tiết và cách viết phóng túng này.
Dần dần tôi đã đọc được thêm nhiều cuốn truyện khác như "Ba chàng lính ngự lâm", "Hai mươi năm sau", "Bá tước Monte Cristo", "Miếng da lừa", "Lão hà tiện", "Không gia đình", "Nhà thờ Đức bà Paris", "Hai vạn dặm dưới biển", truyện ngụ ngôn của La Fontaine … Chúng đã đưa tôi đến một xã hội biến động, đầy sóng gió, nơi có những con người với các số phận khác nhau nhưng đều hướng tới sự tự do và bình đẳng, nhân ái và cảm thông, lịch thiệp và ngay thẳng, luôn luôn hy vọng và mỉm cười trong khó khăn.
Những tâm hồn này có lẽ đã được phản ánh trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp, và tôi thấy rất thú vị về việc nó được trích dẫn trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Việt Nam, góp phần vào xây dựng một thế giới hòa nhập.
Văn học Pháp có sức lôi cuốn mạnh mẽ với tôi qua những câu văn đầy âm thanh và màu sắc, qua tinh thần nhân văn, tự do phóng khoáng và trào phúng.
Tôi vẫn tìm đọc các tác phẩm văn học khác của Pháp và cố học tiếng Pháp để có thể đọc từ nguyên bản nhằm mở mang thêm hiểu biết về một đất nước, một xã hội, một nền văn hóa với những con người đầy ắp các tư tưởng khoáng đạt và hành động quả cảm, như một bầu trời đầy những ngôi sao lấp lánh.
Nguyễn Xuân Nguyên