Thảo Chi -
Đó cũng chính là những vấn đề bức xúc hàng đầu tại Hội nghị Văn học Nghệ thuật Các dân tộc thiểu số toàn quốc vừa được tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 3 và 4/4 vừa qua.
Văn học tiếng dân tộc đang mất phương hướng
Trong khi âm nhạc, múa... của các dân tộc thiểu số phát triển ngày một mạnh mẽ thì văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc Thái, Mông, Chăm, Êđê... hầu như vắng hoe. Số nhà văn sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ hiện nay không nhiều, không mấy khó khăn để có thể liệt kê được: Dương Thuấn (Tày), Nông Quốc Chấn (Tày), Lò Ngân Sủn (Giáy), Inrasara (Chăm)... "Viết bằng tiếng dân tộc mình khó quá!" - nhà văn Kim Nhất (Bana) nói. Nhà thơ Inrasara cũng thừa nhận: "Hai lần tôi nhận giải thưởng thơ của Hội Nhà văn cũng bằng các sáng tác tiếng Việt. Từ 10 năm nay, tôi đã không còn hứng thú trong làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ nữa".
Bản thân các nhà thơ đã vậy, các cơ quan báo chí cũng chẳng hỗ trợ được nhiều trong việc phát triển văn học bằng tiếng dân tộc thiểu số. Các nhà văn, nhà thơ sáng tác cũng chẳng biết đăng tải ở đâu: Phụ san Văn nghệ dân tộc mỗi kỳ đăng vài bài thơ song ngữ, tạp chí Tagaulau của người Chăm mỗi số cũng chỉ đăng được 5-7 bài thơ tiếng Chăm, chẳng thấm tháp gì. Không chỉ vậy, tác phẩm viết ra cũng chủ yếu là những người trong nghề đọc, vì "Con em bây giờ đâu còn nhiều người biết chữ viết của dân tộc mình nữa" - nhà văn Y Điêng (Êđê) nói.
Văn học tiếng Việt của nhà văn dân tộc thiểu số
Trong tình trạng lép vế của tiếng dân tộc và con số độc giả khiêm tốn là bà con người dân tộc, các nhà văn dân tộc thiểu số đã có khuynh hướng tự thể hiện mình trong không gian rộng lớn hơn: tiếng Việt. Thời gian qua, nhà văn người dân tộc thiểu số sáng tác bằng tiếng Việt xuất hiện khá đông đảo, có sự khai phá và khẳng định mình trên thi đàn cả nước. Bằng lời nói, lối nghĩ của dân tộc mình, họ đã tạo được bản sắc độc đáo trong dòng chảy văn học Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, trong chiều sâu tâm thức, nhiều cây bút vẫn còn mang những mặc cảm, tự ti: Câu chữ của mình có gì đó chưa thật nhuần nhuyễn, chưa thật tinh tế như người Kinh! Và họ nỗ lực học tập, vươn tới. Nhưng chính nỗ lực này nảy sinh ra rắc rối: từ hình ảnh, cụm từ làm sẵn, ước lệ, lối ví von, ngắt câu... đều na ná như người Kinh. "Hệ quả: Chẳng những chúng ta không bằng người Kinh mà ngày càng xa rời chính giọng thơ của mình" - nhà thơ Inrasara công nhận. Mặt khác, trong xu thế phát triển chung của xã hội, nhiều nhà văn khi được đào tạo trưởng thành lại rời quê hương, làng bản về sống và làm việc ở các thị xã, thành phố, xa các vùng dân tộc, xa quê hương bản quán nên ít nhiều có khoảng cách với vùng quê sáng tạo của mình. Vì vậy, tác phẩm của họ cũng chưa phản ánh đậm nét và sâu sắc, chân thực cuộc sống hiện tại của vùng dân tộc thiểu số.
Tre già, măng chưa kịp mọc
Một vấn đề nữa của văn học các dân tộc thiểu số là sự thiếu hụt nghiêm trọng về đội ngũ kế cận. Nhà thơ Y Phương, Trưởng ban Văn học Dân tộc miền núi, Hội Nhà văn Việt Nam, cho biết: Tuổi trung bình của các nhà văn dân tộc thiểu số được kết nạp vào hội là 50. Người cao tuổi nhất hiện nay là nhà thơ Bàn Tài Đoàn, sinh năm 1913, năm nay đã 93 tuổi. Sau đó đến độ tuổi 70 gồm các nhà văn Triều Ân, Nông Viết Toại, Y Điêng... Sau nữa là những người ở độ tuổi 60 hoặc ngấp nghé 60: Vương Trung, Ma Trường Nguyên, Mã A Lềnh, Hùng Đình Quý, Pờ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mã Thế Vinh... "Ai cũng nói nhà văn không có tuổi, nhà văn không già nhưng thực tế các nhà văn dân tộc thiểu số đang già đi gần hết" - nhà thơ Dương Thuấn nói.
Ai cũng biết, sáng tạo có những quy luật riêng, không phải cứ muốn là được. Không nhà văn nào dám nói trước, khi về già, mọi chuyện chung và riêng đã an bài, mình còn có thể ham viết. Ham đọc, ham học thì có thể, nhưng ham viết thì rất khó. Viết để cho hay, cho đúng với yêu cầu phát triển của thời đại và của chính dân tộc mình còn khó hơn nữa. Điểm lại các hội viên Hội Nhà văn là người dân tộc thiểu số, chúng ta thấy không người nào có tuổi đời dưới 45. Vì thế, việc phát hiện, bồi dưỡng các tác giả trẻ, tạo dòng chảy không ngừng, khỏi bị hẫng hụt về đội ngũ là vấn đề rất bức thiết với văn học dân tộc thiểu số miền núi.
Nhưng việc đào tạo đội ngũ viết văn người dân tộc thiểu số chẳng phải là dễ dàng gì. Nhà văn Linh Nga Niết Đam cho biết, Hội Văn học Nghệ thuật Đắk Lắk đã đỡ đầu cho hơn chục trại sáng tác văn học thiếu nhi hè hằng năm. Hàng trăm em đã được qua trại, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, nhưng đọng lại chỉ có một Niê Thanh Mai (dân tộc Êđê). Vì thế, khi thế hệ trước đã như những cây tre già đi, nhưng thế hệ sau vẫn như lớp măng còn lấp ló đâu đó, chưa kịp mọc.
"Văn học dân tộc thiểu số vừa đi vừa ngủ" - đó là cách nói của nhà thơ Inrasara tại Hội nghị Văn học Nghệ thuật Các dân tộc thiểu số toàn quốc. Để đánh thức văn học dân tộc thiểu số, chúng ta còn rất nhiều việc cần phải làm....
Nhà văn Kim Nhất (Bana): "Nhà văn người Tây Nguyên ít lắm, có thể đếm được trên đầu ngón tay. Tôi cũng muốn viết bằng tiếng Bana cho đồng bào mình đọc, nhưng do tập kết từ bé, nên tôi quên nhiều tiếng dân tộc mình rồi". Nhà văn Y Điêng (Êđê): "Nhiều anh em chúng tôi cũng muốn viết bằng tiếng dân tộc, nhưng viết cho ai đọc, khi số người biết chữ dân tộc không nhiều? Theo tôi, Hội Nhà văn nên phối hợp với Bộ GD-ĐT đẩy mạnh việc dạy ngôn ngữ mẹ đẻ cho học sinh dân tộc thiểu số trong các trường phổ thông. Có người đọc, chúng tôi mới có hứng thú để tiếp tục sáng tác". Nhà văn Inrasara (Chăm): "Thi sĩ cư trú đồng thời canh giữ ngôn ngữ dân tộc như ngôi nhà của tính thể con người. Hôm nay ngôi nhà ngôn ngữ Chăm, Tày, Mông... đang dột nát, dột nát đến vô phương cứu chữa"; "UNESCO cho biết, mỗi tháng nhân loại mất đi 2 ngôn ngữ. 400 năm qua, hơn 1.000 ngôn ngữ của loài người bốc khói. Với một cụm di tích, một nền văn chương cổ..., chúng ta có thể phục chế, sưu tầm, dịch thuật để người đời sau thưởng lãm, nghiên cứu. Nhưng hỏi nếu ngôn ngữ sống của một dân tộc mất đi, chúng ta hành xử như thế nào? Bất khả. Ngôn ngữ dân tộc tồn tại và phát triển chủ yếu qua sáng tác văn chương, nhưng hôm nay còn mấy ai làm thơ, viết văn bằng tiếng Chăm, Tày, Thái, Dao...?". |
(Nguồn: Người lao động)