Tiền Trung Văn -
eVăn: Tiền Trung Văn sinh năm 1932 tại Vô Tích, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Năm 1955, ông tốt nghiệp khoa tiếng Nga, Đại học nhân dân Trung Quốc, năm 1959 học nghiên cứu sinh khoa ngôn ngữ văn học Nga, Đại học Matxcơva. Cuối năm 1959 ông về công tác tại Sở nghiên cứu văn học Viện khoa học Trung Quốc, chuyên nghiên cứu văn học Nga. Là giáo sư của nhiều trường đại học lớn ở Trung Quốc, chủ biên tờ "Văn học bình luận". Tác phẩm chính gồm có: Gogol và nghệ thuật châm biếm, Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa hiện đại, Văn học nguyên lý - phát triển luận, Lý luận văn học: Hướng tới thời đại giao lưu đối thoại, Tân lý tính tinh thần văn học luận... Nhằm giúp bạn đọc có cơ hội tham khảo một quan điểm văn học từ một nước có nhiều sự tương đồng với chúng ta, eVăn giới thiệu bài viết Vấn đề tính hiện đại trong lý luận văn học của ông. Bản dịch bài này được đăng lần đầu trên tạp chí Văn học nước ngoài, số 2/2004. |
Tính hiện đại và diễn tiến của nó
Cái gọi là tính hiện đại, theo tôi chính là loại tinh thần lý tính, tinh thần khai sáng thúc đẩy xã hội bước vào giai đoạn phát triển hiện đại, khiến xã hội không ngừng hướng tới khoa học, tiến bộ, cũng là loại tinh thần khoa học và tinh thần nhân văn phát triển ở mức cao, là loại tinh thần ý thức hiện đại, biểu hiện thành nguyên tắc phổ biến về khoa học, nhân đạo, lý tính, dân chủ, tự do, bình đẳng, quyền lợi, pháp chế. Giới học thuật Âu Mỹ bàn luận xoay quanh vấn đề tính hiện đại đã vài trăm năm, quá trình diễn biến của nó, về đại thể đã hình thành các loại quan niệm về tính hiện đại của học phái chủ nghĩa Mác, học phái tư tưởng tự do chủ nghĩa kiểu Weber và của học phái tư tưởng bảo thủ, phát triển đến gần đây lại có học phái lý luận tính hiện đại lý tính giao tiếp của Habermas. Các quốc gia Âu Mỹ trong tình trạng không ngừng vươn tới ý thức hiện đại, tính hiện đại, đã tạo dựng được nền văn minh vật chất và văn minh tinh thần phát triển cao độ. Song do sự mâu thuẫn nội tại cố hữu của bản thân tính hiện đại, trong quá trình thực hiện liên tục của tinh thần lý tính, cũng đã gây nên các loại mất cân bằng, khiến cho tinh thần lý tính biến thành lý tính công cụ chỉ bàn đến thực dụng. Sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật và sự phong phú cao độ của sản xuất vật chất, đã thể hiện rõ tiềm năng vô hạn của con người, song lại hình thành sự bành trướng ghê gớm về vật dục của con người, gây nên sức ép của vật đối với con người và sự nghèo nàn về tinh thần ngày một gia tăng nơi con người, khiến con người về mặt tinh thần luôn ở vào trạng thái căng thẳng. Song xét ở khía cạnh khác, gần 100 năm qua, ngành khoa học xã hội đã có sự đào luyện, phát huy được tinh thần nhân văn, đồng thời với việc cung cấp nhiều loại tri thức, mở rộng sự nhận thức của con người đối với xã hội, làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của con người về bản thân, thì trong các nhân quần và tập đoàn khác nhau, nó lại làm cho lý tính biến thành phản lý tính, và dẫn đến phản động, ngấm ngầm tạo nên các loại nguy cơ và động loạn, gây cho xã hội và quảng đại quần chúng hết tai nạn này đến tai nạn khác, từ đó không chỉ làm cho quyền uy của chính mình bị tận diệt, mà còn liên tục làm sâu sắc thêm nguy cơ tinh thần của con người.
Các học giả phương Tây định vị tính hiện đại của tinh thần xã hội, của tư trào học thuật trước mấy chục năm cuối cùng của thế kỷ 20 ở chủ nghĩa hiện đại, coi chủ nghĩa hiện đại là hình thức cuối cùng của tính hiện đại, coi nguy cơ của chủ nghĩa hiện đại là nguy cơ của tính hiện đại[1]. Việc đưa ra nguyên tắc tính hiện đại, việc phê phán sự mở rộng vô hạn độ của tự thân tính hiện đại, phê phán tính hiện đại do sự tha hóa trở lại với chính mình nên đã dẫn tới sa đoạ, rõ ràng là khuynh hướng chủ đạo của các tư trào văn hóa hiện đại gần 100 năm qua, nhất là của triết học phê phán trong thế kỷ 20, việc chúng tự vạch ra những sai lầm đã diễn ra vô cùng quyết liệt. Có điều, những tệ hại của hiện đại hóa đã được các lưu phái văn nghệ, mỹ học, triết học phi chủ nghĩa hiện đại trước chủ nghĩa hiện đại phát hiện từ lâu, và đã có sự phê phán nhất định, cho nên cũng không dễ dàng mà bảo rằng, chỉ có chủ nghĩa hiện đại mới thể hiện tính hiện đại. Chúng ta không thể quy các loại triết học, mỹ học, văn học có sự phê phán mặt tiêu cực của tính hiện đại vào chủ nghĩa hiện đại, vào quỹ đạo của chủ nghĩa hiện đại. Sau khi triết học ngữ ngôn luận, nhất là chủ nghĩa giải cấu trúc và tư trào chủ nghĩa hậu hiện đại liên hệ mật thiết với nó hưng khởi, chủ nghĩa hiện đại đã trở thành đối tượng phê phán, tư duy và mô thức tự sự vốn có của mọi người đã bị xoá bỏ một cách phổ biến, giá trị và tinh thần của con người thêm một bước bị giải thể. Khi chủ nghĩa hậu hiện đại tuyên bố đã thay thế chủ nghĩa hiện đại, tính hiện đại lập tức bị tuyên bố là đã quá thời. Thế nhưng, chúng ta đều biết, những phê phán văn hóa đa phương diện nhằm vào các hiện tượng phản tính hiện đại vẫn chưa bị ngừng hẳn. Nếu hoàn toàn định vị tính hiện đại ở chủ nghĩa hiện đại, vậy thì những phê phán đa phương diện đối với các hiện tượng phản tính hiện đại còn tồn tại nữa không? Nếu còn tồn tại sự phê phán nào đó, thì phải chăng nhất định sẽ là sự phê phán của chủ nghĩa hậu hiện đại? E rằng vị tất đã như vậy. Chẳng hạn, trên thực tế chúng ta vẫn đang phê phán mặt tiêu cực của tính hiện đại, song đó là loại phê phán của văn hóa hiện đại.
Đương nhiên, có thể nói chủ nghĩa hậu hiện đại chính là một loại phê phán. Có điều, loại phê phán văn hóa xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa hậu hiện đại và loại phê phán văn hóa đối với tính hiện đại, lại không nhất trí với nhau. Loại phê phán văn hóa đối với tính hiện đại vẫn đang tìm kiếm những nhân tố tích cực, bảo vệ những nguyên tắc giá trị phổ biến và tinh thần phổ biến mà sự tồn tại của con người cần đến, để làm cho những giá trị và tinh thần đó được xây dựng lại trong quá trình bị phá hoại, sự phê phán ở đây là để phong phú và cách tân; Còn sự phê phán của tính hậu hiện đại, lại là việc sau khi lật đổ những giá trị cũ vốn có, muốn xây dựng lại "hình tượng tự ngã" của con người, kể ra đủ thứ bất cập của tính hiện đại, đồng thời coi chúng là toàn bộ nội dung của tính hiện đại, để rồi tiến tới phủ định tính hiện đại. "Chúng ta có thể, và cần phải ném bỏ tính hiện đại, trên thực tế, chúng ta cần phải làm như vậy, nếu không, chúng ta và đa số sinh mạng trên trái đất sẽ khó mà thoát khỏi số phận bị diệt vong."[2] Kỳ thực, ngay cả ở Âu Mỹ, nếu muốn làm cho xã hội có được sự phát triển bình thường, thì tính hiện đại và ý thức, quyền uy lời nói mà tính hiện đại tạo nên, cho dù một bộ phận đã quá thời, song nguyên tắc và tinh thần cơ bản của chúng vẫn luôn mới, là cái mà khoảng khắc sinh tồn của mọi người không thể rời xa. Về phương diện này, có lẽ quan điểm của nhà triết học Đức Habermas cho rằng tính hiện đại là sự nghiệp còn chưa kết thúc, xem ra còn có chút đạo lý[3]. Việc triết học hậu hiện đại phản đối tính hiện đại, rõ ràng đã thấy được mặt hạn chế trong tư duy vốn có của mọi người, đưa ra được một số quan niệm mới điều tiết mối quan hệ của con người, chúng có thể dùng để thuyết minh cho một số hiện tượng nào đó trong xã hội hậu hiện đại và nguyên nhân gây nên nhiều hiện tượng tiêu cực. Theo tôi, có thể coi những nhân tố tích cực này là nhân tố ý thức hiện đại, hoà nhập nó vào tính hiện đại, làm phong phú tính hiện đại, song thật khó mà gạt bỏ tính hiện đại vẫn đang chi phối đời sống xã hội. Việc trục xuất tính hiện đại ra khỏi đời sống hiện thực, không còn nghi ngờ gì nữa sẽ làm cho bước tiến của đời sống hiện thực mất phương hướng, ngay cả khi đã ở vào thời đại toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa, cũng sẽ gặp phải sự phản kháng cực lớn trước nhu cầu phát triển bình thường của xã hội, chịu sự phê phán của nhân văn, triết học, mỹ học. Cái gọi là toàn cầu hóa hiện nay, chính là thông qua sự liên kết và tổ chức tư bản tiền tệ quốc tế, kỹ thuật thông tin quốc tế, hình thành loại quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa liên hệ chặt chẽ, chế ước lẫn nhau giữa các quốc gia, nó khiến cho các quốc gia trên trái đất, về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa hướng tới sự đồng nhất hóa và nhất thể hóa về mặt hình thức. Song đối với các quốc gia có nền chính trị, kinh tế, văn hóa còn chưa phát triển, toàn cầu hóa chính là loại ý thức tham dự, trong sự tham dự tích cực để phát triển bản thân mình. Do đó, tính hiện đại trong mắt họ và tính hiện đại mà các quốc gia phát triển chủ trương, lại không nhất trí với nhau. Còn như trong tương lai, nội hàm của tính hiện đại có thể sẽ có những thay đổi hoặc trở nên hết sức phức tạp, song nguyên tắc và tinh thần của nó, không còn nghi ngờ gì nữa, vẫn sẽ tồn tại lâu dài.
Đối với chúng ta (T.Q.), tôi muốn chứng minh rằng tính hiện đại của tinh thần ý thức hiện đại không hề quá thời. Trên 100 năm qua, con đường hiện đại hóa của xã hội nước ta vô cùng gian nan. Xã hội nước ta đã xảy ra bao cuộc thay đổi lớn lao, chúng ta đã có thể tăng tốc tiến trình hiện đại hóa, song giai đoạn phát triển hiện đại của xã hội xem ra lại kéo dài liên miên, khó mà vượt qua. Trước đây chúng ta chẳng đã muốn vượt qua cái này cái kia, muốn một bước ăn ngay, kết quả là những bước nhảy vọt mù quáng đó đã gây cho mọi người biết bao tổn thất về tinh thần và vật chất. Chúng ta cảm thông với cuốn tiểu thuyết chống lại chủ nghĩa không tưởng Chúng ta[4] của Nga viết vào đầu thập kỷ 20 thế kỷ 20, đã đưa ra lời dự đoán mạnh mẽ đến vậy, điều đó không khỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ sâu sắc. Nguyên tắc và tinh thần của tính hiện đại xem ra cũng như vậy.
Tính hiện đại trải qua bao phen trắc trở, đến nay cần có sự chỉnh hợp mới. Hiện giờ cho thấy, quảng đại dân chúng về mặt vật chất còn chưa được hít thở hơi thở của cuộc sống hiện đại hóa một cách đầy đủ, về mặt tinh thần cũng vậy. Để làm cho xã hội bước vào hiện đại, đất nước bước lên con đường hiện đại hóa, trước đây chúng ta đã có không ít người, và hiện nay cũng sẽ có nhiều người đang tạo dựng tính hiện đại cho riêng mình. Trong thế kỷ 20, có học giả đã coi tính hiện đại của xã hội phương Tây là tính hiện đại của chúng ta, để rồi ra sức phát huy, đặt niềm tin vào cuộc Tây hóa toàn bàn (ý nói rập khuôn theo các mô hình phát triển của xã hội phương Tây một cách triệt để). Thế nhưng, ngay từ nửa cuối của thế kỷ 19, tính hiện đại của phương Tây đã bộc lộ đủ loại mâu thuẫn ở một phương diện khác của nó, đến nay lại càng trầm trọng. Sau "Ngũ Tứ" (1919) một số người đã bệ nguyên xi, song loại học phong này luôn gặp phải sự trách cứ của mọi người. Một số người khác tiến hành truyền bá và biến thông lý luận chủ nghĩa Mác, đồng thời kết hợp chặt chẽ với thực tế của T.Q., khiến cho xã hội có được những thay đổi mang tính cách mạng. Thế nhưng đến thập kỷ 50, lại dự tính hôm nay của Liên Xô chính là ngày mai của chúng ta (T.Q.), đồng thời tạo nên hàng loạt phong trào quần chúng, hễ có ý kiến bất đồng, liền tiến hành tiêu trừ chính trị, điều này trên thực tế cũng là một loại rập khuôn điển hình. Do tính hiện đại đã bị tính chủ quan thay thế một cách mù quáng, do lề thói phương Đông thâm căn cố đế còn chưa bị tiêu vong, khiến cho khoa học biến thành mê tín hiện đại, lý tưởng bị bóp méo thành chủ nghĩa không tưởng đã bị phê phán từ lâu, nhân hoạ triền miên, làm cho tính hiện đại hướng tới tính phát xít phong kiến thời "cách mạng văn hóa", dẫn tới phản động, làm cho sự phát triển xã hội bị tàn phá nặng nề, đời sống tinh thần của con người suy bại, đến nỗi cuộc sống tinh thần của mọi người đến nay vẫn chưa thoát khỏi bóng đen hãi hùng của nó. Điều này đã trở thành cảm thụ thời đại ghi tâm khắc cốt của mấy thế hệ, không còn nghi ngờ gì nữa, điều này tất sẽ được lịch sử tư tưởng làm rõ.
Thập kỷ 80, xã hội T.Q. ở vào thời kỳ cải cách, mở cửa, một số người không bằng lòng với sự lạc hậu của mình, ánh mắt chăm chắm hướng vào phương Tây hiện đại, cho rằng hôm nay của phương Tây là ngày mai của chúng ta, cho rằng đó chính là tinh thần hiện đại, thế là lại dấy lên làn sóng Tây hóa, điều này trong giới tư tưởng, giới học thuật của chúng ta đều được biểu hiện rõ ràng. Hãy nói về nghiên cứu văn học, cách đây không lâu, đọc bài viết ngắn của Tiền Lý Quần[5], bàn về việc thập kỷ 80 ông ta và đồng nghiệp đã đưa ra quan niệm "văn học T.Q. thế kỷ 20". Quan niệm này không nằm ở bản thân sự biểu đạt văn tự, mà ở sự luận giải về nó. Sự giải thích đối với quan niệm này của các nhà đề xướng, sau này trong việc biên soạn văn học sử đã nảy sinh ảnh hưởng như mọi người đã biết, song trong học giới lại tồn tại những ý kiến khác nhau. Đời sống hiện thực của thập kỷ 80, 90 buộc người ta phải suy nghĩ lại. Tác giả bài viết trên cho rằng, bản thân khái niệm đó không cần phải thay đổi, song căn cứ vào tình hình cụ thể của sự phát triển văn học thế kỷ 20, hiện giờ tất phải có sự luận giải mới về hàm nghĩa của nó; đồng thời thừa nhận việc đề xuất quan niệm này chính là kết quả ảnh hưởng của thuyết "phương Tây trung tâm luận" lúc đó. Đối với một học giả, điều chỉnh quan điểm của mình là chuyện bình thường, có người trình bày công khai, có người tiến hành lặng lẽ, có người điều chỉnh trong lặng lẽ còn muốn chứng tỏ mình chính xác một cách nhất quán. Tác giả bài viết ngắn trên muốn điều chỉnh quan điểm của mình, điều này đã là thái độ thực sự cầu thị, song còn trình bày hết ngọn nguồn tư tưởng, nhất là dám thừa nhận chịu ảnh hưởng của Tây hóa, thì quả là phải có dũng khí. Thú thực, sau khi đọc hết bài viết ngắn này, tôi thực sự cảm động trước phong cách học thuật thành thực của tác giả. Thuyết phương Tây trung tâm luận, theo tôi, chính là tính hiện đại mà vị học giả này lý giải trong thập kỷ 80, mà sự nhận thức về tính hiện đại của hôm nay đã đứng ở tầng rất cao. Một vài học giả phương Tây nói, xã hội phương Tây đương đại đã bước vào xã hội hậu hiện đại, tính hiện đại đã quá thời, khoảng giữa thập kỷ 80, thuyết này được truyền vào T.Q. Đến thập kỷ 90, một số học giả trẻ nước ta đã bê nguyên xi lý luận của các học giả phương Tây, cao giọng cho rằng văn hóa, văn học của chúng ra đã hướng tới thời kỳ "kết thúc tính hiện đại". Kỳ thực, đây lại là kiểu rập khuôn Tây hóa, hoặc kiểu "sao chép", "mô phỏng" đích thực! Cảnh giác, phê phán và tránh hậu quả mang tính phá hoại do hiện đại hóa gây nên, vượt qua những cạm bẫy của nó, tôi cho rằng điều này sẽ không thể dẫn đến sự kết thúc của tính hiện đại. Chúng ta phải phân tích những giải thích và phê phán khác nhau của các học giả phương Tây về tính hiện đại, song cũng không thể hạn chế ở những luận giải của họ về tính hiện đại.
Xét tiến trình lịch sử của tính hiện đại, tính hiện đại là loại tinh thần ý thức hiện đại được trao cho tính cụ thể lịch sử, là loại chỉ hướng mang tính lịch sử. Trong các giai đoạn phát triển, nội hàm của tính hiện đại có những điểm chung, song cũng rất khác nhau. Một số vấn đề tư tưởng học thuật được đưa ra lúc ấy chỗ nọ, xem ra lại không đáp ứng được yêu cầu của tính hiện đại lúc đó, nên không được coi trọng, thậm chí còn bị phê phán; song ở lúc này chỗ này, nó không chỉ tương thông với yêu cầu của tính hiện đại hiện thời, mà còn có thể trở thành bộ phận hợp thành cơ bản của tính hiện đại. Chẳng hạn, những đánh giá về các cuộc tranh luận tư tưởng học thuật sau "Ngũ Tứ", xuất phát từ yêu cầu tính hiện đại hiện thời, chúng ta có thể nói so với yêu cầu của thời kỳ "Ngũ Tứ", về tổng thể là nhất trí, song lại không hoàn toàn như vậy. Phong trào văn hóa mới "Ngũ Tứ", là một lần đi sâu của cách mạng Tân Hợi, là cuộc cách mạng thực sự về văn hóa. Phong trào này, mục đích là tiến một bước lật đổ chế độ phong kiến, xoá bỏ truyền thống văn hóa cũ, hướng tới hiện đại hóa triệt để hơn. Chuẩn tắc phê phán của nó, chính là tư tưởng chủ nghĩa dân chủ, tư tưởng chủ nghĩa khoa học, một bộ phận chính là tư tưởng chủ nghĩa Mác mới được truyền vào T.Q. Những tư tưởng này đã hình thành tinh thần ý thức hiện đại của thời kỳ "Ngũ Tứ", chỉ hướng của nó biểu hiện thành tính hiện đại của thời kỳ này. Bất kỳ hiện tượng văn hóa nào của thời kỳ này, trước phong trào văn hóa mới, trước tính hiện đại của thời kỳ "Ngũ Tứ", đều trải qua việc trình bày lý do tồn tại của mình, mà có được sự kiểm nghiệm, có được lựa chọn hoặc gạt bỏ. Việc đề xướng văn bạch thoại, là một bước ngoặt về tự sự của văn học nước nhà; còn xu hướng nghiên cứu quốc học lúc đó, do đi ngược với tinh thần khoa học, tinh thần nhân văn được đề xướng lúc đó, nên đã gây trở ngại cho bước tiến của phong trào văn hóa mới. Sau đó một chút, phái "Học hoành"[6], phái "Giáp dần"[7], tiếp tục phản đối cuộc cải cách về lời nói văn học, họ bảo vệ văn hóa cũ, phê phán văn hóa mới, cho rằng văn học bạch thoại không phải là văn học, ra sức chế nhạo phái cải cách. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đương nhiên trở thành những người lạc ngũ của thời đại.
Công tích của phong trào "Ngũ Tứ" toả sáng muôn đời trong lịch sử, thái độ cấp tiến đối với văn hóa cũ lúc đó, xét từ góc độ thúc đẩy tiến bộ lịch sử, là điều tất yếu, đó là kết quả của sự thay đổi không ngừng trong văn hóa nước ta hồi cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Song cũng chính do tính cấp tiến, tính tuyệt đối sau này của nó, đã làm cho văn hóa mới và văn hóa truyền thống có sự ngăn cách, đó cũng là sự thực. Một số học giả không thừa nhận có cái gọi là sự đứt đoạn, cho rằng đã kế thừa rất tốt, đó cũng là một loại ý kiến. Chúng ta một mặt do muốn đuổi kịp sự phát triển của thời đại, thoát khỏi cục diện lạc hậu ngu muội, cảm thấy chỉ có thể tìm các tấm gương và phương thuốc từ người nước ngoài, nếu không sẽ khó mà tự lập được. Mặt khác, nhất là mấy chục năm sau phong trào "Ngũ Tứ", do chúng ta đã cắt đứt mối liên hệ với truyền thống, khiến chúng ta chỉ cảm thấy truyền thống văn hóa thật bấp bênh, chẳng thể tin cậy. Bảo rằng chúng ta có truyền thống văn hóa ưu tú mấy ngàn năm, song lại liên tục đánh dẹp văn hóa cổ đại, dẫn đến cảnh cổ tịch bị tiêu huỷ, cái truyền thống văn hóa ưu tú mà người ta nhìn không thấy, sờ chẳng được rốt cuộc nằm ở đâu, từ đó gây nên cảnh nghèo nàn về văn hóa, về tinh thần của quảng đại quần chúng. Đây chính là tâm thái văn hóa của chúng ta trong gần 100 năm qua, nhất là trong gần 50 năm qua, tuy gần 20 năm nay, tình hình đã có những cải thiện.
Thế kỷ 20 sắp bước qua ranh giới cuối cùng, 100 năm qua với biết bao sự kiện đã xảy ra, diện mạo chỉnh thể của lịch sử đang hiện diện trước mắt chúng ta, điều này không còn nghi ngờ gì nữa đã khiến chúng ta có được sự cảm nhận chỉnh thể về lịch sử. Hiện giờ đối với chúng ta, sự đánh giá về lịch sử đã có thể không bị hạn chế bởi nhất thời nhất sự, có thể tìm hiểu chúng trong mối liên hệ của lịch sử, đã trở thành kiểu đánh giá mang tính chỉnh thể. Tính hiện đại cũng chính là tinh thần ý thức hiện đại, có góc nhìn cởi mở hơn và độ lượng khoan dung hơn. Đối với các phương diện của tư tưởng văn hóa cách mạng trước đây, nên xuất phát từ chỉnh thể lịch sử để có được sự đánh giá và nhìn lại, cho dù trước đây bị coi là tư tưởng văn hóa bảo thủ cũng vậy. Những nhân tố, thành phần có lợi cho sự phát triển văn hóa hiện nay, đều được chúng ta tiếp nhận, hấp thu; toàn bộ các nhân tố, thành phần không có lợi cho sự phát triển văn hóa hiện nay, sẽ bị gác lại. Có những hiện tượng tiến bộ, có thể đặt trong mối liên hệ với nhiều loại hiện tượng khác, do đã loại bỏ được tính cô lập nhất thời nhất sự, có được sự thông thoáng của diện mạo chỉnh thể lịch sử nên đã phát hiện ra nhân tố tiêu cực trong đó, thậm chí có thể thấy được nguyên nhân khiến nó đi tới phản diện; Một hiện tượng lịch sử vốn luôn bị coi là tiêu cực, cũng vậy có thể do đã loại bỏ được tính cô lập nhất thời nhất sự, trong mối liên hệ qua lại của chỉnh thể, do sự thông thoáng của diện mạo lịch sử, mà có thể phát hiện nhân tố tích cực của nó.
Việc đánh giá một cách chỉnh thể đối với lịch sử, là phương thức tư duy mang tính hiện đại mà chúng ta từng chủ trương, nó thừa nhận tính tất yếu của cuộc đấu tranh một phân thành hai trong thời kỳ đầy biến động của sự phát triển lịch sử, thừa nhận tính tất yếu của cách mạng, nếu không, những tư tưởng, văn hóa mới và chế độ mới khó mà đứng được, khó mà phát triển lớn mạnh; đồng thời cũng chủ trương những tư tưởng, văn hóa mới một khi đã ra đời và hình thành, phải dựa trên cơ sở của sự phê phán, giám biệt, hấp thu đầy đủ tinh hoa của truyền thống văn hóa vốn có, bồi đắp nên máu thịt của mình; chỉ nhằm vào đấu tranh, chỉ chủ trương tư duy đối lập nhị nguyên, tất sẽ gây hoạ cho xã hội. Điều mà tính hiện đại hôm nay cần, nên là loại tư duy không phải A tức là B, bài xích đối lập tuyệt đối, phủ định đấu tranh tuyệt đối, càng phải là loại tư duy hướng tới sự khoan dung, đối thoại, tổng hợp, cách tân, đồng thời cũng bao hàm cả tư duy không phải A tức là B khi cần thiết và loại tư duy vừa là A vừa là B có phán đoán giá trị.
(Còn nữa)
---
Chú thích:
[1] Những nhân sĩ phương Tây giữ quan điểm này có nhiều, chẳng hạn học giả Mỹ, Fred Jameson trong cuốn Chủ nghĩa hậu hiện đại và lý luận văn hóa, đã giải thích chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại là "lần lượt phản ánh loại cấu trúc tâm lý mới, đánh dấu cuộc thay đổi, hoặc nói cuộc cách mạng về tính chất của con người", đồng thời đối ứng ba chủ nghĩa đó với ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản: CNTB thị trường, CNTB lũng đoạn, CNTB đa quốc hóa. Bài viết này xem tính hiện đại và chủ nghĩa hiện đại là quan niệm vừa có liên hệ lại vừa có sự khác nhau. (TG)
[2] Chuyển dẫn từ David Grefen, Tinh thần hậu hiện đại. Nxb biên dịch Trung ương, 1992, tr.29 (Tiếng Trung). (TG)
[3] Habermas: Bàn về tính hiện đại, xem Văn hóa chủ nghĩa hậu hiện đại và mỹ học. Nxb Đại Học Bắc Kinh, 1992, tr.20 (Tiếng Trung). (TG)
[4] Tiểu thuyết của nhà văn Nga những năm 1920-1930 Evgeni Zamiatin. (ND).
[5] Xem Bình luận văn học. Số 1/1999. (TG)
[6] Phái "Học hoành": Một tổ chức tuyên truyền của chủ nghĩa phục cổ, chống lại phong trào văn hóa mới, xuất hiện năm 1922 ở T.Q. Do sáng lập tạp chí "Học hoành" mà có tên. Thành viên chủ yếu có giáo sư Ngô Mật, Mai Quang Địch của đại học Đông Nam Nam Kinh lúc đó. Tờ "Học hoành" ra mắt tại Nam Kinh, tháng 1/1922, nguyệt san, đến năm 1933 đình bản, tổng cộng 79 kỳ. (ND)
[7] Phái "Giáp Dần": "Giáp Dần": Kỳ san mang tính chính trị. Ra mắt tháng 5/1914, tại Tokyo Nhật Bản. Nguyệt san, do Thu Đồng (Chương Sĩ Chiêu) chủ biên. ít lâu sau đình bản, 1925 ra lại, đổi thành tuần báo. Tháng 2/1927 đình bản. Nội dung tuyên truyền phục cổ phong kiến, chống lại tư trào tiến bộ từ"Ngũ Tứ", hô ứng với tờ "Hiện đại bình luận" của giai cấp tư sản, phản đối cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân. (ND).