Ông Đinh Đức Quang - Giám đốc điều hành khối Kinh doanh tiền tệ Ngân hàng UOB Việt Nam chia sẻ cùng độc giả VnExpress về dự báo bức tranh kinh tế trong ba tháng cuối năm.
- Ông đánh giá ra sao về tăng trưởng của Việt Nam trong quý III?
- Dữ liệu do Tổng cục Thống kê (GSO) công bố vào ngày 29/9 cho thấy trong 9 tháng đầu năm, kinh tế Việt Nam có nhiều điểm sáng.
Tăng trưởng GDP của quý III/2023 ở mức 5,33% - một sự cải thiện so với hai quý đầu năm. Tốc độ tăng trưởng đều qua các quý, giúp kết quả chung của 9 tháng tăng ở mức 4,24% so với cùng kỳ 2022; trước đó 6 tháng đầu năm mức tăng trưởng chỉ đạt 3,72%.
Đi sâu vào số liệu tăng trưởng của 9 tháng, điểm nổi bật là các nhu cầu bên ngoài đã được cải thiện. Điều này giúp hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam lần đầu bật đà tăng trưởng trở lại trong tháng 9, sau 6 tháng suy giảm liên tiếp; sản lượng sản xuất chế tạo ghi nhận tháng tăng thứ 4 liên tiếp.
Ngoài ra chúng ta còn ghi nhận sự tăng trưởng nhẹ về chỉ số sản xuất công nghiệp - chỉ số rất quan trọng để cho thấy tình hình chung về sự phục hồi kinh tế. Mức tiêu dùng nội địa, hoạt động du lịch cải thiện, tăng trưởng tốt hơn hai đầu năm, từ đó tạo kết quả tích cực cho 9 tháng đầu năm.
Bất chấp triển vọng chưa chắc chắn, các doanh nghiệp nước ngoài vẫn tiếp tục cam kết đầu tư vào Việt Nam trong làn sóng phi toàn cầu hóa, giảm thiểu rủi ro và chuyển dịch chuỗi cung ứng hiện nay.
- Ông dự báo tăng trưởng cả năm 2023 sẽ như thế nào?
- Nhiều năm qua tăng trưởng kinh tế Việt Nam thúc đẩy bởi hai yếu tố: nhu cầu bên ngoài và tiêu dùng nội địa.
Hiện nay, nhu cầu bên ngoài có một sự không chắc chắn, một vài thị trường chính của Việt Nam đang gặp khó khăn. Lấy ví dụ tại Mỹ, mức lãi suất cao, ảnh hưởng nhu cầu tiêu dùng cũng như nhập khẩu. Một thị trường khác là Trung Quốc, chưa đạt sự phục hồi như kỳ vọng. Từ hai thị trường này có thể thấy ngành xuất nhập khẩu của Việt Nam đang bị nhiều ảnh hưởng. Ngoài ra, các thị trường trọng điểm khác như châu Âu, Nhật vẫn chưa thấy sự tươi sáng hoàn toàn.
Sự suy giảm bên ngoài tạo tác động dây chuyền cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam, khiến việc tăng lương hay thu nhập định kỳ của tầng lớp lao động Việt Nam gặp khó khăn. Chúng tiếp tục ảnh hưởng nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Từ các yếu tố không chắc chắn này, chúng tôi tạm điều chỉnh dự báo chung về tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 5% cho cả năm 2023 (so với con số 5,2% đưa ra ở đợt trước) và 7% cho quý IV/2023. Điều này vẫn đòi hỏi các hoạt động kinh tế và đơn đặt hàng phải tăng tốc trong những tháng tới.
- Có những rủi ro nào từ phía bên ngoài cần được tiếp tục theo dõi, thưa ông?
- Qua phân tích diễn biến thị trường, tôi thấy để đạt tốc độ tăng trưởng GDP 7% trong quý IV/2023 và cả năm đạt mức 5%, vẫn có một số rủi ro cần quan sát kỹ. Đầu tiên, tăng trưởng Việt Nam dựa vào nhu cầu bên ngoài, rủi ro từ sự hồi phục bên ngoài không chắc chắn.
Tháng 11, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể sẽ tăng lãi suất. Hiện nay mức lãi suất là 5,5%, nếu tăng lên 5,75% sẽ trở thành mức cao kỷ lục của USD trong nhiều năm, tác động mạnh mẽ đến nhu cầu tiêu dùng thị trường Mỹ. Đi cùng, thị trường châu Âu đang trong đà tăng lãi suất, đây là rủi ro về mặt lãi suất của các đồng tiền lớn trên thế giới.
Rủi ro thứ hai mà tôi muốn nhắc lại chính là hậu quả có thể đến từ chiến sự Nga - Ukraine kéo dài hơn một năm, tác động lớn đến giá cả hàng hóa. Gần đây các quốc gia đã có giải pháp để cải thiện giá cả. Việt Nam cũng làm tốt trong việc dịu bớt giá xăng dầu, lương thực thực phẩm. Nhưng vẫn còn một số điểm không chắc chắn, cần quan sát xem giá xăng dầu có tiếp tục tăng hay không, đến một mức nhất định thì cần điều chỉnh để tính toán mức lạm phát. Đây có thể là một yếu tố tạo áp lực tăng thêm lạm phát tại Việt Nam.
- Vừa qua FED giữ nguyên lãi suất, ông dự báo các động thái của cơ quan này trong các tháng cuối năm sẽ như thế nào?
- Cuối tháng 9, FED quyết định tạm ngưng phần tăng lãi suất, giữ ở mức cơ bản là 5,25% và 5,5%. Tuy nhiên, vừa rồi có một số dữ liệu từ thị trường lao động Mỹ và dự báo thị trường cho thấy trong tháng 11 cơ quan này có thể cân nhắc tăng lãi suất 25 điểm cơ bản lên 5,75% - mức gần như kỷ lục của lãi suất đồng USD.
Đi cùng Ngân hàng Trung ương của các khu vực khác như, châu Âu cũng đang có xu hướng tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát. Đây là áp lực cho cơ quan quản lý Việt Nam - cân bằng lãi suất của các đồng tiền lớn so với VND như thế nào để hài hòa lợi ích của nhà đầu tư cũng như cân bằng áp lực thị trường ngoại hối và lãi suất. Tôi nghĩ đây là một trong những khó khăn của cơ quan quản lý trong thời gian tới
- Theo ông, mức lạm phát của Việt Nam sẽ như thế nào?
- Mức lạm phát Việt Nam trong 9 tháng dưới 4%. Dựa trên các cơ sở tính toán, chúng tôi dự báo mức lạm phát cả năm ở mức 3,9% - thấp hơn mục tiêu 4,5% mà Chính phủ đề ra.
Cơ sở để đưa ra con số này gồm: áp lực tăng giá từ các yếu tố căn bản như lương thực thực phẩm, xăng dầu vẫn chưa gây tác động mạnh đến chỉ số tiêu dùng Việt Nam. Thứ hai, từ đầu năm đến nay cơ quan quản lý đã bốn lần cắt giảm lãi suất cơ bản khoảng 1,5-2%. Mức cắt giảm này ở mức vừa phải, chưa thả lỏng quá mức đến mức tạo lạm phát. Dựa vào kỳ vọng tăng trưởng, áp lực lạm phát vừa phải không quá lớn, tôi kỳ vọng cơ quan quản lý sẽ cắt giảm thêm lãi suất chính sách. Thời điểm cắt giảm lãi suất, tôi dự báo sẽ rơi vào cuối quý IV/2023 hoặc sang đầu năm 2024, vì quyết định tiếp theo của FED và Ngân hàng Trung ương trên thế giới rất quan trọng để cơ quan quản lý cân nhắc nhằm hài hòa thị trường, cân bằng ngoại hối, lãi suất.
- Tỷ giá có xu hướng gia tăng ông dự báo đồng VND sẽ diễn biến thế nào trong thời gian tới?
- So với đầu năm nay, tỷ giá giữa USD và VND tăng khoảng 3%. Diễn biến này đến từ hai nguyên nhân chính: nhu cầu khách hàng tăng lên và chênh lệch lãi suất liên ngân hàng.
Tháng 9, hoạt động ngoại thương, xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có cải thiện. Cộng vào đó, lãi suất liên ngân hàng của đồng VND thấp hơn nhiều so với lãi suất USD. Sự chênh lệch này tạo ra một số hoạt động kinh doanh trên thị trường, dịch chuyển vốn đầu tư và tác động thị trường ngoại hối.
Nhìn rộng hơn, biến động này chỉ ở mức 3%, chưa phải đáng lo ngại so với các đồng tiền lớn khác trên thế giới và trong khu vực so với USD. Ví dụ đồng Yên Nhật từ đầu năm đến nay mức biến động 8% so với USD. Trong khu vực, đồng Ringgit (Malaysia) có mức biến động 5-6%.
Do đó chúng tôi đánh giá tỷ giá trong quý IV/2023 sẽ tăng nhẹ thêm, biến động tỷ giá có thể đạt tối đa 4% trong năm 2023. Dựa trên tính toán về mức thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giải ngân, mua bán sát nhập, mua bán kiều hối mạnh cuối năm, xuất nhập khẩu có yếu tố tích cực, tôi tin thị trường ngoại hối sẽ quay lại mức ổn định. Tỷ giá trên dưới 24.000 đồng tiếp tục duy trì trong khoảng 6 tháng tới.
Chúng tôi cũng thường khuyến nghị doanh nghiệp hiểu hơn về ngoại hối, tin tưởng cơ quan quản lý, để ổn định thị trường ngoại hối chứ không thể có sự cố định vì các yếu tố ngoại thương, dịch chuyển dòng vốn, thu hút vốn đầu tư nước ngoài luôn xảy ra và nó sẽ luôn tạo ra sự biến động trên thị trường.
Minh Tú