Theo báo cáo Tổng kết công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em năm 2022 của Bộ Y tế, tỷ lệ mổ lấy thai ở Việt Nam tăng liên tục trong 15 năm qua. Năm 2005, tỷ lệ sinh mổ ở Việt Nam là 12%. Tới năm 2022, tỷ lệ này là 37%.
Tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, mỗi năm có hơn 20.000 ca đẻ, trong đó hơn một nửa là mổ. Tỷ lệ đẻ mổ tăng dần theo các năm. 5 năm gần đây (2015 đến 2019), trong hơn 110.000 ca sinh nở tại bệnh viện có gần 68.000 ca mổ, tức là hơn 50%, và gấp đôi so với 10 năm trước đó.
Ngày 24/2, PGS. TS. Trần Danh Cường, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, cho rằng tỷ lệ đẻ mổ ở Việt Nam như vậy là rất cao. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo tỷ lệ sinh mổ nên duy trì dao động ở 10-15% tổng ca sinh để tránh các tai biến sản khoa cho cả mẹ và thai nhi.
Ông Cường phân tích tỷ lệ mổ đẻ tăng vì ngày nay tỷ lệ chủ động mổ lấy thai theo yêu cầu cũng tăng cao. Nhiều gia đình mong muốn sinh con theo giờ, theo ngày đã được lựa chọn trước. Các biến chứng liên quan đến chuyển dạ cũng khó lường. Trường hợp khó đẻ, bác sĩ thường chuyển sang đẻ mổ, không kiên trì chờ sinh thường bởi áp lực sợ bệnh nhân chuyển biến xấu.
Khi một phụ nữ đẻ con đầu lòng bằng phương pháp mổ thì con thứ 2, thứ 3 chắc chắn phải mổ. Đây cũng là nguyên nhân khiến tỷ lệ đẻ mổ tăng lên.
Ngoài ra, như Bệnh viện phụ sản Trung ương là tuyến cuối về sản phụ khoa ở miền Bắc, tập trung nhiều bệnh nhân là mẹ hoặc thai nhi mắc bệnh lý, ở nhiều địa phương khác chuyển về. Có những trường hợp dọa đẻ non, thụ tinh trong ống nghiệm, thai chậm phát triển trong tử cung, hay thai phụ bị tiền sản giật, nhau cài răng lược... bắt buộc phải mổ lấy thai.

PGS.TS. Trần Danh Cường trao bé sơ sinh chào đời bằng phương pháp sinh mổ cho bố. Ảnh: Lê Nga
PGS Cường cho biết đẻ mổ cả mẹ và bé có thể gặp nhiều nguy cơ hơn sinh thường. Ví dụ, người mẹ sinh thường không gặp các biến chứng của sinh mổ như gây tê màng cứng, gây mê, chảy máu vết mổ sau đẻ. Sau sinh, mẹ đẻ thường có sữa nhiều do trong quá trình chuyển dạ sẽ kích hoạt hệ thống nội tiết. Ngoài ra, thời gian hồi phục của sản phụ sau đẻ thường sẽ ngắn hơn.
Em bé sinh thường phải trải qua một thời gian dài trong quá trình chuyển dạ, nên phổi hoạt động tốt, dịch phổi trào ra khi bé lọt lòng, tránh tình trạng chậm tiêu dịch phổi. Về sau, hệ hô hấp của trẻ sẽ tốt hơn trẻ sinh mổ.
Phụ nữ đã trải qua mổ lấy thai, lần mang thai tiếp theo sẽ tăng nguy cơ vỡ tử cung (đặc biệt những tháng cuối thai kỳ, lúc chuyển dạ) do thành tử cung mỏng. Nguy cơ vỡ tử cung khi có sẹo mổ cũ hai lần cao gấp đôi so với sẹo mổ cũ một lần.
Lê Nga