Trương Tửu -
Tên sách: Tuyển tập văn xuôi Trương Tửu
Sưu tầm và biên soạn: PGS - TS Nguyễn Hữu Sơn
NXB Lao Động
Nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà giáo Trương Tửu (18/10/1913 - 16/10/1999), còn có các bút danh Nguyễn Bách Khoa, Hoàng Canh, Mai Viên, T.T...; nguyên quán làng Bồ Đề, xã Phú Viên huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là một phường thuộc quận Long Biên, Hà Nội).
Cuộc đời Trương Tửu là một chuỗi thăng trầm, những cuộc dấn thân với một tinh thần trung thực, tranh đấu vì học thuật và lẽ phải. Vào năm 1927, ngay khi mới 15 tuổi, ông đã bị bắt, bị đuổi học vì tham gia bãi khóa ở Hà Nội để đòi thực dân Pháp thả tác giả Chiêu hồn nước (Phan Tất Đắc, 1910-1935). Ba năm sau, khi đang học Trường Kỹ nghệ thực hành Hải Phòng, ông vận động học sinh bãi khóa, phản đối ban giám đốc bỏ các môn lý thuyết về kỹ thuật nên lại bị đuổi học. Năm 1937, ông làm chủ bút Quốc gia khuynh tả, vì đả kích Bảo Đại, triều đình Huế và Nghị viện nên bị truy tố trước Tòa án Hà Nội và bị xử phạt. Năm 1940, ông viết Kinh thi Việt Nam nhưng bị cấm, viết truyện Thằng Hóm bị tịch thu ngay lúc ở nhà in. Từ 1941 đến 1946, ông chủ trì Nhà xuất bản Hàn Thuyên và tập san Văn mới, chủ trương in sách của mọi tác giả, mọi xu hướng (dân tộc, dân chủ, quốc gia, cộng sản và các tác giả tự chịu trách nhiệm...). Bút danh Trương Tửu bị cấm, ông phải lấy bút danh Nguyễn Bách Khoa tiếp tục viết sách. Tháng 5/1945, ông bị hiến binh Nhật lùng bắt phải bỏ trốn và tập san Văn mới bị tịch thu.
Sau chín năm tham gia kháng chiến chống Pháp, ông tiếp tục giảng dạy lý luận và lịch sử văn học Việt Nam tại Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa Hà Nội. Năm 1956, ông tham gia phái đoàn giáo dục đại học tham quan nghiệp vụ ở Trung Quốc, khi trở về viết bài trên tập san Giai phẩm của Nhà xuất bản Minh Đức, kiến nghị một số chủ trương, chính sách mới về văn hóa, văn nghệ, giáo dục và kinh tế với Đảng và Nhà nước. Năm 1957, ông được phong Giáo sư cùng đợt với các học giả Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường... Đầu năm 1958, ông bị "thi hành kỷ luật", buộc thôi công tác, không dạy đại học nữa vì tham gia viết trên Giai phẩm mùa thu và Giai phẩm mùa đông (không viết báo Nhân văn). Từ sau đó ông chuyển sang nghiên cứu, viết sách, hành nghề Đông y và mất tại Hà Nội...
![]() |
Trang bìa cuốn sách. |
Đến nay không mấy ai còn nhớ những trang văn xuôi (bao gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn) in đậm tính luận đề và chất dã sử của Trương Tửu thời những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ XX. Sự lãng quên này có lý do bởi các tác phẩm văn xuôi Trương Tửu đều chưa được tái bản, hơn nữa còn chịu búa rìu của những quan niệm phê bình cực đoan, "bắt vít" một chiều, cơ hội chủ nghĩa, cố ý tạo nên luồng dư luận không đúng và không tốt. Trên thực tế, Trương Tửu sáng tác khá nhiều và được coi là một trong những cây bút có phong cách trong làng tiểu thuyết giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám...
Các tác phẩm văn xuôi Trương Tửu bao quát một hệ thống chủ đề và phạm vi nội dung hiện thực rộng lớn: đương đại, lịch sử và dã sử; đấu tranh xã hội, gia đình và cá nhân; đấu tranh giai cấp, tình yêu và phong tục; thành thị, ven đô và nông thôn; trí thức, công chức và nông dân... Tác giả cũng sử dụng nhiều phong cách, bút pháp, giọng điệu khác nhau: đối thoại, độc thoại, dòng ý thức, ghi chép tư liệu, phóng sự, luận đề, sử liệu, thư từ... Trương Tửu có những tác phẩm đi sâu khai thác cuộc cải biến xã hội đương thời, những cuộc va chạm quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, đặc biệt phản ánh sâu sắc những đổ vỡ, hoang mang, ngỡ ngàng của lớp người trẻ tuổi trước thực tại xã hội thời thực dân hóa cùng mặt trái của thời kỳ đô thị hóa, hiện đại hóa (Thanh niên S.O.S, Một chiến sĩ, Khi người ta đói...). Thông qua những tấn bi kịch tình yêu và gia đình, nhà văn đi sâu phân tích bi kịch con người cá nhân, con đường bần cùng hóa, bế tắc và không còn khả năng thích nghi với cuộc sống đang biến đổi mau chóng (Khi chiếc yếm rơi xuống, Đục nước béo cò...). Phần nào bắt nhịp và tiếp xúc đồng đại với văn học phương Tây đương đại, Trương Tửu chú trọng phân tích tâm lý con người cá nhân theo dòng ý thức, theo những ẩn ức thân phận và cả khía cạnh tính dục (Trái tim nổi loạn, Một cổ đôi ba tròng, Tôi nguyền rủa mãi người cha ấy, Một kiếp đọa đầy...). Đến chặng cuối thời kỳ sáng tác văn xuôi, Trương Tửu hướng đến thể tài dã sử, thường được gọi là "truyện dã sử" hay "tiểu thuyết dã sử". Trong thực chất, cả hai tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề và Năm chàng hiệp sĩ đều thuộc loại tiểu thuyết lịch sử, có thời gian, bối cảnh, sự kiện, có mối liên hệ với nhân vật thuộc thời trung đại và được ghi chép trong chính sử. Tiểu thuyết Tráng sĩ Bồ Đề (2 quyển, 14 chương) nương theo sự kiện Thập đạo tướng quân Lê Hoàn thay thế nhà Đinh vào giai đoạn cuối thế kỷ X. Tuy nhiên, hoạt động của các tráng sĩ Bồ Đề, Bạch Hạc và các cô Minh Tâm, Kim Chi trong đảng Từ Bi đối lập với đảng Thập Đạo nơi kinh thành cho thấy màu sắc hiện đại hóa và dấu ấn ảnh hưởng không khí xã hội đương thời. Tiểu thuyết Năm chàng hiệp sĩ (2 quyển, 14 chương) lại lấy bối cảnh lịch sử xã hội thời Lý Anh Tông (1138-1175), xây dựng nhiều nhân vật đảng viên trung kiên của đảng Quần Anh đan xen những mối tình lãng mạn, những hoạt động do thám, thủ tiêu, lật đổ. Điều này khiến thiên tiểu thuyết gia tăng chất truyện trinh thám, cốt truyện vụ án, đường rừng, đưa lại sự hấp dẫn, ly kỳ, hồi hộp cho người đọc. Nhìn chung, cả hai thiên tiểu thuyết lịch sử này đều được "tiểu thuyết hóa" ở mức độ cao, hư cấu thêm nhiều nhân vật, sự kiện, chi tiết, tình tiết. Đây cũng chính là điều sở đắc của loại tiểu thuyết lịch sử (dã sử) của Trương Tửu trong dòng tiểu thuyết lịch sử nói chung.
Rõ ràng phần lớn các sáng tác của Trương Tửu đều có mối liên hệ chặt chẽ với dự đồ sáng tạo, với chủ đích luận đề đấu tranh xã hội, với tính tư tưởng mà tác giả suy tôn, tin tưởng. Những lời tựa, đề từ, trữ tình ngoại đề có sự tương hợp chặt chẽ với toàn bộ nội dung tư tưởng tác phẩm. Đây chính là một đặc điểm quan trọng, góp phần định hướng, chi phối toàn bộ các tác phẩm văn xuôi của Trương Tửu giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945.
(Trích bài viết của PGS - TS Nguyễn Hữu Sơn)