Breton, André -
"...biện minh cho trạng thái hoàn toàn đãng trí mà chúng tôi trông đợi đạt được nơi trần thế này." (A. Breton)
![]() |
Một tác phẩm của Max Ernst. (1942) |
Vì rất quan tâm tới Freud vào thời kỳ này và được làm quen với những phương pháp kiểm định của ông mà tôi vốn ít có cơ hội thử nghiệm qua những người bệnh trong thời chiến, nên tôi quyết nhận được ở chính mình điều mà người ta tìm cách đạt được ở bệnh nhân, đó là một cuộc độc thoại với tốc độ nhanh nhất, mà lý trí phân tích của chủ thể không thể kiểm soát, do đó việc kiểm soát ấy không hề quan tâm tới bất kỳ sự ngập ngừng nào, đó cũng chính là điều mà tư tưởng được phát biểu thành lời. Tôi đã có cảm tưởng hoặc còn cảm tưởng - câu văn về con người bị cắt đôi xảy đến với tôi đã chứng minh cho cách thức này - rằng tốc độ của tư duy không lớn hơn tốc độ lời nói, rằng tốc độ không nhất thiết thách thức ngôn ngữ, cũng như với ngòi bút đang viết. Chính bằng những khả năng này mà tôi và Philippe Soupault - người được tôi báo cho những kết luận đầu tiên này - đã tiến hành bôi đen tờ giấy bằng vẻ khinh thị đáng khen những gì sẽ kế tiếp theo lối văn chương. Dễ dàng làm nốt phần còn lại. Cuối ngày đầu tiên, chúng tôi có thể đọc cho nhau nghe khoảng năm mươi trang giấy có được theo cách này, và có thể bắt đầu so sánh kết quả của chúng tôi. Nói chung, những kết quả của Soupault và của tôi cho thấy một sự tương đồng đáng chú ý: cùng một lỗi cấu trúc, cùng sự thiếu khuyết như nhau, nhưng ở cả hai trường hợp đều có ảo tưởng về một sự cao hứng đặc biệt, rất nhiều xúc cảm, cũng một sự lựa chọn với những hình ảnh cùng một chất lượng hệt như chúng ta không thể chuẩn bị thật kỹ lưỡng một hình ảnh duy nhất, một sự mặn mà rất đặc biệt và thỉnh thoảng có vài chỗ là sự hài hước sắc sảo. Những khác nhau duy nhất của hai văn bản này đối với tôi có lẽ chủ yếu là liên quan tới khí chất tương hỗ của chúng tôi - khí chất của Soupault không tĩnh như của tôi, nếu tôi được phép phê bình một cách nhẹ nhàng như thế - và liên quan tới việc anh ấy đã mắc lỗi khi đặt một vài từ thay thế cho tiêu đề lên trên đầu một số trang, và chắc là do trí nghĩ bị lừa phỉnh. Ngược lại, tôi phải công bình với anh vì anh thường phản đối rất mạnh mẽ việc soạn lại dù nhỏ nhất, việc sửa lại dù rất ít ỏi trong mọi đoạn viết kiểu này, mà theo tôi vốn không phù hợp. Có lẽ về điều này thì anh ấy hoàn toàn có lý (11). Quả thật, rất khó đánh giá đúng mức những yếu tố khác nhau xuất hiện, thậm chí có thể nói rằng không thể đánh giá được chúng ngay từ lần đọc đầu tiên. Ngay cả bạn khi viết thì nhìn bề ngoài những yếu tố ấy đối với bạn cũng có vẻ xa lạ như đối với người đọc, và tất nhiên là bạn ngờ vực nó. Về cách thức làm thơ mà nói, chúng được ưa chuộng nhờ vào một mức độ phi lý trực tiếp rất cao, vì với một sự thẩm tra kỹ lưỡng hơn thì nét riêng biệt của sự phi lý ấy là ở chỗ nhường vị trí cho tất cả những gì là có thể chấp nhận được, và có tính hợp pháp trong thế giới này: ấy là tiết lộ một số lượng đặc tính và sự kiện nói chung không kém khách quan.
Để tưởng nhớ Guillaume Appolinaire vừa qua đời, và chúng tôi thấy hình như nhiều lần đã tập dượt theo kiểu này song không dành cho nó những phương tiện văn học tầm thường, Soupault và tôi đặt tên Chủ nghĩa Siêu thực cho cách diễn đạt mới thuần khiết mà chúng tôi có thể đạt được và chúng tôi nóng lòng cho những người bạn của mình tận dụng khả năng ấy. Tôi tin rằng ngày nay không cần phải bàn lại từ ấy nữa, và nghĩa của từ này được chúng ta sử dụng luôn chiếm ưu thế so với nghĩa của Appolinaire đã dùng. Đúng hơn, có lẽ chúng ta sẽ thử sử dụng từ Chủ nghĩa Siêu nhiên do Gérard de Nerval dùng trong lời đề tặng Những cô gái lửa (12). Đúng là dường như Nerval đã đạt được tới tinh thần mà chúng tôi theo đuổi, vì thực ra Appolinaire chỉ có chữ, vẫn còn chưa đầy đủ với chủ nghĩa siêu thực và tỏ ra bất lực không đưa ra được một bản tổng quan lý thuyết đáng ghi nhận. Đây là hai câu của Nerval đối với tôi có vẻ như rất đáng chú ý về phương diện này:
Tôi sẽ giải thích với ông, ngài Dumas thân mến, hiện tượng mà ông đã nói trên kia. Ông biết đấy, có một vài người kể chuyện không thể tưởng tượng mà không tự đồng nhất với các nhân vật thuộc trí tưởng tượng của mình. Ông biết người bạn cũ của chúng ta Nodier đã kể với niềm tin chắc chắn biết bao rằng ông ấy bất hạnh như thế nào khi bị đưa lên máy chém vào thời kỳ Cách mạng; người ta trở nên tin vào điều ấy tới mức người ta tự hỏi làm thế nào ông ta lại cho gắn trở lại được cái đầu của mình.
... Và vì ông đã bất cẩn khi trích dẫn một trong những bài thơ xon nê được sáng tác trong trạng thái mơ mộng theo lối Siêu nhiên (13)ấy, như những người Đức thường nói, nên ông cần nghe tất cả. Ông sẽ thấy chúng ở cuối tập thơ. Chúng không tối tăm hơn siêu hình học của Hegel hay những Những cái đáng nhớ của Swedenborg(14)và có thể đánh mất sự quyến rũ của mình khi được giải thích, nếu có thể hãy nhượng bộ với tôi ít nhất là giá trị của việc diễn đạt... (15)
Sẽ là ác ý khi phủ nhận quyền sử dụng của chúng tôi đối với từ Siêu thực theo ý nghĩa rất đặc biệt mà chúng tôi dành cho nó, bởi vì thật là rõ ràng là trước chúng tôi thì cái từ này không được chấp nhận. Tôi do vậy dứt khoát định nghĩa nó là:
... Tôi cảm thấy tiếng nói ấy (tức tiếng nói siêu thực - BT) không chỉ tỏ ra thích hợp với mọi tình huống của cuộc sống, thứ tiếng nói mà tôi luôn cố để nó trở nên có giá trị, tiếng nói ấy không những không tước đi của tôi bất kỳ phương tiện nào, nó còn mang lại cho tôi một sự sáng rõ kỳ lạ, cả trong lĩnh vực mà tôi ít chờ đợi nhất. Tôi thậm chí sẽ khẳng định rằng tiếng nói ấy đã dạy tôi và quả thật có lúc tôi đã sử dụng một cách siêu hiện thực những từ mà tôi đã quên cả nghĩa. Tôi có thể kiểm chứng ngay lập tức xem việc tôi sử dụng các từ ấy có tương ứng một cách chính xác với các định nghĩa của chúng không. Điều này có thể sẽ làm ta tin rằng ta không "học", mà bao giờ cũng chỉ là "học lại". Có những tình huống may mắn mà tôi đã làm quen như thế. Tôi không nói tới ý thức thi ca về các đối tượng, cái mà tôi chỉ có thể giành được khi gặp gỡ với chúng về mặt tinh thần trong hàng ngàn lần lặp lại.
Các hình thức của tiếng nói siêu thực là phù hợp nhất với cuộc đối thoại. Khi ấy, hai tư duy va chạm nhau; trong khi một cái thì phó mặc, còn cái kia lại chú tâm tới hình thức tiếng nói, nhưng nó chú tâm như thế nào? Giả thiết tư duy này được trộn lẫn với tư duy kia có lẽ sẽ là chấp nhận rằng trong một thời điểm thì tư duy này có thể hoàn toàn sống bằng tư duy kia, điều vị tất xảy ra. Và quả thật, sự chú ý của tư duy đối với tiếng nói hoàn toàn chỉ ở bề ngoài; tư duy chỉ có niềm vui thú là tán thành hay bài xích, thường thì là bài xích, với tất cả mọi mặt con người có thể có. Tuy thế cách thức dùng tiếng nói như vậy lại không cho phép tiếp cận bản chất của một vấn đề. Sự chú ý của tôi, mồi của một sự xin xỏ mà tư duy ấy không thể chối bỏ cho đúng lẽ, đã đối xử với tư duy thứ hai như kẻ thù; trong cuộc trò chuyện thường gặp, tư duy ấy "trách mắng" tư duy kia hầu như ở từng từ một, từng hình thái được tư duy sử dụng; tư duy ấy làm cho tôi có thể lợi dụng nó trong đối đáp bằng cách làm biến tính các hình thái. Điều ấy thật tới mức trong một vài trạng thái tinh thần bệnh lý khi các rối loạn giác quan thu hút toàn bộ sự chú ý của người bệnh, thì người này vừa tiếp tục đáp lại các câu hỏi, lại vừa chỉ giữ từ cuối cùng được phát âm trước mặt mình hay giữ lấy thành phần cuối cùng của câu nói kiểu siêu thực mà anh ta tìm thấy dấu vết trong trí óc mình:
"Bao nhiêu tuổi hả anh? - Anh ý" (chứng lắp lời) (16)
"Anh tên là gì? - Bốn mươi nhăm ngôi nhà" (Triệu chứng đính vải trang sức hay những câu trả lời bên cạnh)
Trí óc không nằm ở tâm điểm cuộc trò chuyện khi có điều gì đó rối loạn đang xảy ra. Cố gắng mang tính xã hội đang chủ trì ở đây và thói quen chủ yếu của chúng ta, chỉ riêng chúng đã có thể che giấu được sự rối loạn ấy với chúng ta một cách tạm thời. Đó cũng là điểm yếu lớn của cuốn sách khi không ngừng có xung đột với lý trí của những người đọc tốt nhất, vì tôi đòi hỏi những người đọc khó tính nhất. Trong cuộc trò chuyện rất ngắn mà tôi ứng tác trên kia giữa bác sĩ và bệnh nhân tâm thần, chính bệnh nhân đã thắng. Bởi vì anh ta đã áp đặt bằng những câu trả lời của mình cho sự chú ý của bác sĩ đang kiểm tra anh ta - và vì anh ta không phải là người đặt câu hỏi. Liệu có phải nói rằng tư duy của anh ta lúc này là mạnh nhất? Có thể. Anh ta tự do vì không phải quan tâm tới tuổi tác và tên họ của mình nữa.
Chủ nghĩa siêu thực thi ca mà tôi nghiên cứu, được áp dụng cho tới lúc này để khôi phục lại cuộc đối thoại trong sự thật tối cao của nó, bằng cách tách bỏ hai người tham gia đối thoại khỏi những gò bó xã giao. Mỗi một người trong số họ chỉ theo đuổi lời độc thoại của mình, chứ không hề tìm cách mang lại một niềm vui thú biện chứng đặc biệt và áp đặt phần tối thiểu của thế giới cho người đối thoại kia. Những lời nhận được, như bình thường, không có mục đích là phát triển một chủ đề, cũng chểnh mảng lơ là như người ta muốn, chúng cũng đều được áp dụng vào việc khác khi có thể. Còn về câu trả lời mà chúng đòi hỏi, về nguyên tắc thì câu trả lời đó hoàn toàn thờ ơ với lòng tự ái của người đã nói. Từ ngữ, những hình ảnh chỉ hiện ra như chiếc bàn đạp cho lý trí của người đang lắng nghe. Chính bằng cách này mà trong cuốn Những loại từ trường, cuốn sách đầu tiên thuần siêu thực, phải xuất hiện các trang giấy được tập hợp lại dưới cái tên: Những trở ngại, ở đấy Soupault và tôi đều tỏ ra là những người đối thoại vô tư.
Chủ nghĩa siêu thực không cho phép những ai say mê với nó lại bỏ dở khi họ thích. Tất cả đều nhằm tin rằng nó tác động lên lý trí theo cách của những chất ma túy; cũng như những chất này, nó tạo nên một trạng thái nhu cầu nhất định và có thể đẩy con người tới những cuộc nổi loạn khủng khiếp. Nếu người ta muốn, còn có một thiên đường hoàn toàn nhân tạo và cái sở thích được tô đậm bằng bài phê bình của Baudelaire cùng tên như những bài khác. Do vậy cần phân tích các hiệu quả huyền bí và những lạc thú riêng biệt có thể được thiên đường ấy sinh ra, ở nhiều khía cạnh thì chủ nghĩa siêu thực hiện ra như một sai lầm mới, sai lầm đó tưởng như không nhất thiết phải là của riêng một số người; nó như thứ thuốc phiện có thể thỏa mãn mọi kẻ tinh tế, một phân tích như vậy không thể không tìm thấy vị trí trong nghiên cứu này.
Có những hình ảnh siêu thực giống hệt như những hình ảnh thuốc phiện mà con người không gợi lại nữa, nhưng chúng lại "hiện ra với con người vừa tự phát vừa chuyên chế. Con người không thể vứt bỏ những hình ảnh ấy; bởi vì ý chí không còn sức mạnh nữa và không cai quản được nữa các năng lực của mình. Còn cần phải xem liệu người ta có bao giờ còn "gợi ra" các hình ảnh. Nếu người ta dừng lại ở đó, như tôi đã làm điều ấy, theo định nghĩa của Reverdy thì có vẻ như không thể tiến lại gần một cách tự nguyện điều mà anh ấy gọi là "hai hiện thực cách quãng". Việc sáp lại gần có diễn ra hay không, chỉ có vậy. Về phần mình tôi phủ nhận một cách dứt khoát nhất, rằng ở Reverdy các hình ảnh kiểu như:
Trong dòng suối có một bài hát đang chảy.
hay:
Ánh sáng trải ra như một chiếc khăn trải bàn màu trắng.
hay:
Thế giới trở về trong một cái túi xách.
đều thể hiện mức độ nhỏ nhất của sự chủ ý. Theo tôi, điều sai lầm là cả quyết rằng "lý trí đã tóm được các mối quan hệ" của hai hiện thực đang hiện diện. Để bắt đầu, lý trí chẳng tóm lấy cái gì một cách có ý thức. Chính sự tiến lại gần theo cách ngẫu nhiên nào đó của hai khái niệm đã làm bật ra một thứ ánh sáng đặc biệt, ánh sáng của hình ảnh, tỏ ra vô cùng nhạy cảm với chúng ta. Giá trị của hình ảnh phụ thuộc vào vẻ đẹp của tia lửa nhận được; bởi vậy, giá trị là chức năng của sự khác biệt tiềm tàng giữa hai chất dẫn truyền. Khi sự khác biệt này hầu như không tồn tại như trong sự so sánh thì tia lửa không xảy ra. Thế là, theo suy nghĩa của tôi, lý trí không thuộc thẩm quyền của con người trong việc cùng chuẩn bị cho sự tiến lại gần của hai hiện thực rất xa nhau. Nguyên tắc liên hội của các ý tưởng, như chúng ta hình dung, chống lại sự tiến lại gần nhau. Hay có nên lại quay trở lại một nghệ thuật tỉnh lược bị cả Reverdy và tôi lên án. Do vậy buộc phải chấp nhận rằng cả hai khái niệm về hình ảnh không suy ra được cho nhau bằng lý trí nằm trong tầm của tia lửa sinh ra, rằng các khái niệm đó là những sản phẩm đồng thời của hành động mà tôi gọi là siêu thực, vì lý tính chỉ ghi nhận và đánh giá hiện tượng ánh sáng.
Cũng như chiều dài của tia lửa mạnh hơn khi xảy ra trong những thứ khí hiếm, bầu khí quyển siêu thực được tạo nên từ cách viết như máy, tôi rất mong đặt nó trong tầm tay của mọi người, đặc biệt sẵn sàng cho việc tạo nên những hình ảnh đẹp nhất. Người ta thậm chí có thể nói rằng các hình ảnh xuất hiện, trong dòng chảy chóng mặt ấy, như những cái cờ hiệu duy nhất của lý trí. Lý trí dần dần tin vào hiện thực tối cao của những hình ảnh ấy. Trước tiên chỉ là chịu đựng chúng, lý trí ngay sau đó nhận ra rằng các hình ảnh vuốt ve lý tính của nó, và làm tăng lên được bao nhiêu hiểu biết cho lý trí. Nó ý thức được về những tri thức mênh mông không giới hạn, nơi những mong muốn của nó được biểu hiện, nơi điều chấp nhận và điều phản đối không ngừng giảm đi, nơi sự tối tăm của lý trí không tiết lộ nó. Thế là, chuyên chở và làm lý trí vui thú, các hình ảnh ấy hầu như không để cho lý trí thời gian làm bất cứ điều gì. Đêm trong số những đêm đẹp nhất là đêm của các tia chớp: ánh sáng, so với nó, là đêm.
Những kiểu hình ảnh không đếm xuể của chủ nghĩa siêu thực sẽ đòi hỏi một sự phân loại mà giờ đây tôi không dự định thử nghiệm. Việc xếp nhóm các kiểu đó tùy theo sự tinh tế đặc biệt của chúng có thể dẫn tôi đi quá xa: tôi chủ yếu muốn tính tới hiệu năng chung của chúng. Đối với tôi, hiệu năng có sức mạnh nhất là hiệu năng thể hiện mức độ võ đoán cao nhất, tôi không giấu giếm điều ấy; hiệu năng mà người ta mất nhiều thời gian nhất để thể hiện bằng tiếng nói thiết thực, hoặc là hiệu năng ấy chứa đựng một liều khổng lồ mâu thuẫn hình thức, hoặc là một trong những khái niệm của nó được che giấu một cách kỳ lạ, hoặc là vì thông báo một cách ấn tượng nên hiệu năng có vẻ như được kết thúc một cách yếu ớt (dù cho nó khép góc đột ngột của chiếc com-pa), hoặc là hiệu năng ấy có được trong chính mình một sự biện minh có tính hình thức giễu nhại, hoặc là nó thuộc loại ảo giác, hoặc là hiệu năng ấy gán một cách tự nhiên cho sự trừu tượng cái mặt nạ của sự cụ thể hay ngược lại, hoặc là nó liên can tới sự phủ định đặc điểm thể chất sơ đẳng nào đó, hoặc là nó gây ra tiếng cười. Đây là một vài ví dụ, xếp theo trật tự:
Màu đỏ rubi của rượu sâm banh. Lautréamont
Đẹp như định luật dừng phát triển ở ngực những người lớn, mà thiên hướng của họ với sự tăng trưởng không phải nằm trong mối quan hệ số lượng phân tử mà cơ thể của họ đồng hóa. Lautréamont
Một nhà thờ dựng lên chói lòa như một gác chuông. Philippe Soupault
Trong cơn buồn ngủ của Rrose Sélavy có một người lùn đi ra từ một cái giếng vừa mới ăn cái bánh của mình vào đêm. Robert Desnos
Trên cây cầu màu phớt hồng ở đầu con mèo cái trở nên dịu đi. André Breton.
Về phía trái một chút, trong bầu trời của mình được đoán, tôi thoáng nhận thấy - nhưng không chắc có phải một làn khói máu và chết chóc - sự hào nhoáng mờ xỉn của những nhiễu loạn tự do. Louis Aragon.
Trong cánh rừng bốc cháy, / Những con sưư tử còn tươi mới. Roger Vitrac
Màu sắc của phần phía dưới một người đàn bà không nhất thiết liên quan tới hình ảnh đôi mắt bà ta, điều ấy làm một nhà triết học nói rằng thật vô ích khi gọi tên: "Loài chân đầu có nhiều lý do hơn là loài bốn chân khi sợ hãi sự tiến bộ". Max Morise.
1. Dù muốn hay không, thì vẫn có ở đấy cái gì đó làm hài lòng rất nhiều đòi hỏi của lý trí. Toàn bộ các hình ảnh ấy có vẻ như chứng minh rằng lý trí chín muồi vì những điều khác với những niềm vui nhẹ nhàng mà lý trí nói chung là hòa hợp. Đấy là cách duy nhất mà lý trí phải cho số lượng lý tưởng các sự kiện được nó gánh chịu quay theo hướng có lợi cho mình. Những hình ảnh ấy mang lại cho lý trí khả năng biến mất thông thường và những phiền phức do sự biến mất dành cho nó. Không hề tồi khi các hình ảnh ấy cuối cùng lại làm chưng hửng lý trí, bởi vì làm chưng hửng lý trí chính là đặt lý trí trong sai lầm của chính mình. Những câu văn mà tôi trích ra đều bổ sung vào đấy là chính. Nhưng lý trí khi nếm trải những câu văn ấy lại rút được từ đấy ra tri thức tự nhận được ra mình trên con đường thẳng; cho chính mình, nó sẽ không thể trở thành thủ phạm tế nhị quá đáng. Nó chẳng có gì để sợ bởi vì ngoài ra, nó tỏ ra mạnh để bao vây tất cả.
2. Lý trí ẩn sâu vào trong chủ nghĩa siêu thực và nếm trải lại phần tuyệt nhất của tuổi thơ mình bằng sự hưng phấn. Đối với lý trí chỉ có một chút, còn sự xác thực của lý trí, vì nó đang chìm đắm dần, lại vượt qua lần nữa cả điều không thể vượt qua của cuộc đời mình chưa đầy một phút. Ai đó sẽ nói với tôi rằng chẳng đáng khích lệ. Nhưng tôi không thiết tha việc khuyến khích mọi người sẽ nói với tôi điều ấy. Từ những kỷ niệm trẻ thơ và một vài kỷ niệm khác xuất hiện một cảm xúc không thể chiếm đoạt và tiếp đó sa đọa, tôi coi tình cảm ấy vô cùng dồi dào khi đang tồn tại. Có thể chính tuổi thơ mới tiến lại gần nhất "cuộc sống thực"; ở ngoài tuổi thơ con người chỉ còn có một vài vé ưu tiên thêm vào giấy thông hành của mình; tuy tuổi thơ là khi tất cả cùng góp sức vào việc sở hữu có hiệu quả về chính mình, và không có điều bất ngờ. Nhờ vào chủ nghĩa siêu thực, có vẻ như những may mắn ấy sẽ quay trở lại. Hệt như nếu người ta còn lao tới sự cứu vớt của mình, hay tới sự mất mát của mình. Thì người ta sẽ lại nếm trải trong bóng tối một sự khủng khiếp quý giá. Ơn Chúa, đó chỉ còn là nơi Chuộc tội. Hơi run rẩy, ta đi qua cái mà những người ưa huyền bí gọi là khung cảnh hiểm nguy. Trên từng bước đi của mình, tôi thầm nghĩ tới những con quái vật đang rình mò; chúng còn chưa phải có ác ý quá lắm đối với tôi và tôi không lạc, bởi vì tôi sợ chúng. Đấy là "những con voi có đầu đàn bà và những con sư tử biết bay", mà Soupault và tôi, cả hai vừa mới run rẩy gặp, đấy là "con cá tan được", nó vẫn còn làm tôi khiếp sợ đôi chút. Con cá tan được, có phải tôi là con cá tan được, vì tôi được sinh ra dưới dấu hiệu của những con Cá và con người thì tan ra trong tư duy của mình. Hệ động vật và hệ thực vật của chủ nghĩa siêu thực đều không dễ thổ lộ.
3. Tôi không tin rằng sẽ có một công thức sáo mòn kiểu siêu thực chủ nghĩa. Những đặc điểm chung cho tất cả các văn bản cùng thể loại, trong số ấy chỉ riêng những văn bản mà tôi vừa lưu ý và rất nhiều cái khác thôi có thể cung cấp cho tôi một bản phân tích hợp lý và một bản phân tích ngữ pháp chặt chẽ, những đặc điểm văn bản ấy không đối lập với một sự tiến triển nào đó của văn xuôi siêu thực theo thời gian. Tiếp đó là rất nhiều các tiểu luận được tôi miệt mài theo hướng này từ năm năm nay và tôi thích thú khi cho là phần lớn chúng cực kỳ mất trật tự, những câu chuyện vặt vãnh tạo nên phần tiếp của tập sách này cung cấp cho tôi một chứng cớ hiển nhiên về điều đó. Vì điều ấy, tôi không coi chúng là xứng đáng hơn hay không để làm hiện ra dưới con mắt độc giả những hạt mầm mà sự đóng góp của chủ nghĩa siêu thực có khả năng làm chúng trở thành hiện thực trong ý thức của độc giả.
Các phương tiện siêu thực chủ nghĩa tuy thế lại đòi hỏi được trải rộng. Tất cả đều thuận lợi để nhận được sự bất ngờ mong muốn từ một vài liên tưởng. Những tờ giấy dán của Picasso và của Braque có giá trị như sự dẫn nhập một điều sáo rỗng vào một sự phát triển văn chương thuộc phong cách được gọt giũa nhất. Thậm chí được phép gọi là Bài thơ từ cái mà ta nhận được do lắp ghép một cách rất vô cớ (hãy tìm hiểu cú pháp nếu bạn muốn) các tiêu đề và một phần các tiêu đề được cắt rời ở các trang báo.
Tôi cảm thấy các áp dụng của chủ nghĩa siêu thực vào hành động còn trở nên quan trọng theo một cách khác (17), tôi đã gợi ý điều ấy một cách đầy đủ. Có lẽ tôi không tin vào phẩm chất tiên tri của ngôn từ siêu thực. "Điều tôi nói ấy là sấm ngôn" (18): Vâng, chừng nào tôi muốn, nhưng thế nào thì đúng là sấm ngôn(19)? Sự sùng đạo của con người không lừa dối tôi. Tiếng nói siêu thực chủ nghĩa từng làm lay động Cumes, Dodone và Delphé không là cái gì khác ngoài tiếng nói xui khiến tôi viết những bài diễn văn ít kích thích nhất. Thời đại của tôi không nhất thiết là của thời đại siêu thực, tại sao tiếng nói ấy lại giúp tôi giải quyết vấn đề trẻ thơ từ số phận của mình? Vì không may mắn, tôi vờ như hành động trong một thế giới để có được cả những gợi ý của tiếng nói siêu thực, nơi ấy tôi có thể buộc phải chấp nhận có hai người phiên dịch cho những gợi ý này, một kiểu người để giải thích cho tôi những câu của chủ nghĩa siêu thực, một người, nhưng không thể tìm thấy, để áp đặt cho những người tương tự như tôi cách hiểu mà tôi có thể có. Thế giới ấy, nơi tôi chịu đựng điều mà mình chịu đựng (không đi xem ở đấy), thế giới hiện đại cuối cùng thật kinh khủng! Anh muốn tôi làm gì ở đó? Giọng nói siêu thực sẽ có thể im lặng, tôi không bị ràng buộc nữa vào việc tính đếm những sự biến mất của mình. Tôi sẽ không tham gia vào việc khấu trừ tuyệt diệu nữa, dù là ít bao nhiêu đi nữa, đối với những năm tháng của cuộc đời tôi. Tôi sẽ như Nijinski được người ta dẫn tới những vở kịch múa Nga năm ngoái, và anh ta không hiểu chút gì những màn trình diễn đang xem. Tôi sẽ lẻ loi, lẻ loi trong chính mình, xa lạ với mọi vở kịch múa của thế giới. Điều tôi làm, điều tôi không làm, tôi trao nó cho anh.
Ngay sau đây, tôi có một ham muốn lớn là cân nhắc sự mơ mộng khoa học một cách độ lượng, cuối cùng dù là khó coi ở mọi phương diện. Điện báo vô tuyến ư? Tất nhiên. Bệnh giang mai ư? Nếu anh muốn. Chụp ảnh ư? Tôi chẳng thấy có gì bất tiện. Điện ảnh ư? Hoan hô những phòng tối. Chiến tranh ư? Chúng ta cùng cười tươi. Điện thoại ư? Alô, vâng. Tuổi trẻ ư? Những hàng tóc trắng đầy quyến rũ. Hãy thử làm cho tôi nói cám ơn: "Cám ơn". Cám ơn... Nếu kẻ tầm thường đánh giá đúng, chính xác mà nói, chuyện nghiên cứu của phòng thí nghiệm, khi những cuộc tìm kiếm ấy đã phóng được một chiếc máy, khám phá được một chất huyết thanh, thì kẻ tầm thường sẽ tự cho là mình liên quan trực tiếp tới chuyện ấy. Không nghi ngờ rằng người ta đã từng muốn cải tạo số phận của mình. Tôi không biết điều gì xuất hiện một cách chính xác trong lý tưởng của những nhà thông thái có ước nguyện nhân đạo, nhưng tôi cảm thấy điều ấy không tạo nên tổng số rất lớn lòng nhân từ. Dĩ nhiên tôi nói về những nhà thông thái thật sự chứ không phải những người phổ biến kiến thức khoa học thuộc đủ hạng, những người làm sao để được cấp phát một bằng phát minh. Trong lĩnh vực này cũng như lĩnh vực khác, tôi tin vào niềm vui siêu thực thuần khiết của con người, vốn quen với thất bại thường xuyên, nên không tự coi như đã thua cuộc mà xuất phát từ nơi mình muốn, bằng con đường hoàn toàn khác với một con đường chính đạo để đạt tới đích. Bất cứ hình ảnh nào mà con người cho là đúng lúc để đánh dấu bước tiến của mình về nó, hình ảnh ấy sẽ mang lại cho con người sự thừa nhận của công chúng, thì tôi có thể thú thực rằng nó không làm tôi bận lòng. Vật chất mà con người phải lưu tâm cũng không cần thiết cho tôi nữa: những ống thủy tinh của người hay những ngòi bút sắt của tôi... Còn về phương pháp của người, tôi coi như cái đáng giá như của tôi. Trong công việc, tôi đã gặp người khám phá phản xạ ngoài da gan bàn chân; anh ta không ngừng dùng tay chữa cho những bệnh nhân của mình, hoàn toàn khác với một "cuộc thi" mà anh ta thực hiện, rõ ràng là anh ta không tin vào bất kỳ sơ đồ nào nữa. Mỗi chỗ, anh ta nêu một nhận xét, xa xôi, nhưng không vì điều ấy mà hạ cái ghim của mình xuống, trong khi ấy cái búa của anh ta luôn chuyển động. Việc chữa trị cho những người bệnh, anh ta để mặc nhiệm vụ vô ích ấy cho người khác. Anh ta hoàn toàn lên cơn sốt thiêng liêng.
Chủ nghĩa siêu thực, như tôi dự định về nó, tuyên bố chủ nghĩa phi-cơ hội của chúng tôi là tuyệt đối nên không phức tạp lắm khi thể hiện nó như nhân chứng được miễn tội, trong vụ kiện của thế giới hiện thực. Ngược lại, chủ nghĩa ấy chỉ nghĩ tới việc biện minh cho trạng thái hoàn toàn đãng trí mà chúng tôi trông đợi đạt được nơi trần thế này. Việc đãng trí của Kant (20) đối với phụ nữ, việc đãng trí đối với "cây nho" của Pasteur (21), sự đãng trí đối với xe cộ của Curie (22) về khía cạnh này vô cùng tiêu biểu. Một cách tương đối, thế giới này chỉ phụ thuộc vào mức độ tư duy và các biến cố theo kiểu ấy chỉ là những chương đoạn tiêu biểu nhất của một cuộc chiến tranh giành độc lập mà tôi lấy làm hãnh diện được tham gia. Chủ nghĩa siêu thực là "tia sáng vô hình" cho phép chúng ta một ngày nào đó chiến thắng đối thủ của mình. "Anh không run sợ nữa, hỡi bộ xương". Mùa hè này, những bông hồng có màu xanh; gỗ đó là chất thủy tinh. Mặt đất được phủ trong màu xanh của nó gây cho tôi chút hiệu quả như một hồn ma. Sống và ngừng sống đều là những giải pháp tưởng tượng. Tồn tại mới ở nơi khác.
Phùng Kiên dịch
từ nguyên bản tiếng Pháp
Phương Ngọc hiệu đính (12/4/2004)
----------------------
Chú thích:
(11) Càng ngày tôi càng tin vào sự không thể sai lầm của tư tưởng mình so với chính mình. Tuy nhiên trong lối viết bằng tư tưởng ấy, khi người ta được phó mặc cho sự đãng trí bên ngoài đầu tiên, có thể xảy ra những "lộn xộn". Người ta có lẽ sẽ không có lỗi khi tìm cách che giấu chúng. Theo định nghĩa, tư tưởng rất mạnh, và không có khả năng sai lầm. Chính là dựa trên sự tính toán của những gợi ý tới với tư tưởng từ bên ngoài mà cần nêu ra những yếu kém hiển nhiên.
(12) Cả Thomas Carlyle trong Sarton Resartus (chương VIII: Chủ nghĩa siêu nhiên tự nhiên), 1833-34.
(13) Nguyên văn supénaturaliste. (N.D).
(14) Nhà triết học và thần trí học người Thụy Điển, có những ý tưởng gợi ý cho Baudelaire về tư tưởng tương ứng giao hòa trong sáng tác nghệ thuật.
(15) Xem thêm Chủ nghĩa hiện thực lý tưởng (idéoréalisme) của Saint-Pol-Roux.
(16) Trong trường hợp này, chúng tôi cố gắng chuyển dịch cho phù hợp với điều mà Breton vừa nói ở trên so với nguyên bản: người tâm thần trong cuộc đối thoại với bác sĩ nhắc lại ý nguyên cái từ cuối cùng mà anh ta nghe thấy. Trong câu tiếng Pháp thì chữ "anh" xuất hiện cuối câu hỏi. (N.D).
(17) Một vài sự thận trọng mà tôi được phép làm dựa trên trách nhiệm nói chung và trên những sự xem xét kỹ của dược điển nhằm xác lập mức độ trách nhiệm của một cá nhân: trách nhiệm toàn bộ, phi trách nhiệm, trách nhiệm hạn chế (nguyên văn), khó khăn tới mức tôi phải chấp nhận nguyên tắc của một tội lỗi nào đó, có thể tôi thích biết các hành động phạm tội đầu tiên sẽ được phán xử như thế nào, và đặc điểm siêu thực của chúng có thể không gây chút nghi ngờ nào. Phải chăng bị can sẽ được trắng án hay anh ta sẽ chỉ tận dụng được các tình huống giảm nhẹ? Thật là thiệt hại khi các tội phạm báo chí không bị trừng trị nữa, và chúng ta không tham gia sau đó vào một vụ án kiểu như thế: bị cáo đã xuất bản một cuốn sách vi phạm đạo đức chung; về lời than thở của một số ai đó về một số công dân của mình.
(18) Rimbaud.
(19) Tuy thế, ... Có lẽ cần biết rõ ràng đích xác. Hôm nay, ngày 8 tháng Sáu năm 1924, nhằm lúc một giờ, giọng nói thì thào với tôi: "Béthune, Béthune". Thế là gì? Tôi không biết Béthune và không có chút ý niệm gì về tình trạng của điểm này trên bản đồ nước Pháp, Béthune chẳng gợi gì cho tôi, ngay cả một cảnh của Ba người lính ngự lâm. Có lẽ tôi phải đi Béthune, nơi có lẽ điều gì đó chờ tôi; có thể thật sự nó rất đơn giản. Người ta đã kể cho tôi rằng trong một cuốn sách của Chesterton, vấn đề là có một thám tử, để tìm kiếm một ai đó mà anh ta tìm trong một thành phố, tỏ ra hài lòng khi lục lọi kỹ càng từ nóc tới sàn nhà những ngôi nhà tỏ ra có những dấu hiệu bất thường ở bên ngoài. Hệ thống ấy đáng giá một cái khác.
Cũng như thế năm 1919, Soupault đi vào nhiều khu nhà khó vào để hỏi người gác cổng liệu Philippe Soupault có ở đó không. Anh không ngạc nhiên về một câu trả lời khẳng định, tôi nghĩ thế. Có lẽ anh sẽ đi gõ chính cửa nhà mình.
(20) Emmanuel Kant (1724-1824) nhà triết học lớn người Đức với thuyết "bất khả tri" và triết học phê phán.
(21) Nhà vi trùng học người Pháp đã tìm ra vi-rút bệnh dại.
(22) Nhà vật lý học người Pháp, cùng vợ là bà Marie Curie tìm ra chất phóng xạ nhưng chết vì tai nạn xe ngựa khi qua đường.