Breton, André -
Tuyên ngôn thứ nhất của chủ nghĩa siêu thực, André Breton soạn thảo năm 1924, lần đầu được dịch trọn vẹn ra tiếng Việt, đăng tại Văn học nước ngoài số 5/2004. eVăn trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. |
"Chỉ có trí nhớ là tự cho mình cái quyền cắt vụn giấc mơ..." (A. Breton)
![]() |
Một tác phẩm của Salvador Dalí. |
Chúng ta vẫn còn sống dưới sự trị vì của tính hợp lý, dĩ nhiên, đó là điều mà tôi muốn nói tới. Nhưng mọi cách thức hợp lý, trong thời đại chúng ta, chỉ còn được dùng cho việc giải quyết các vấn đề có lợi ích phụ. Sự duy lý tuyệt đối vốn là thị hiếu, chỉ cho phép xem xét các sự kiện thuộc riêng kinh nghiệm của ta. Nhưng những cái đích hợp lý lại tuột khỏi tay ta. Vô ích khi thêm rằng ngay cả kinh nghiệm cũng tỏ ra có giới hạn. Nó quay trong một cái lồng mà càng ngày càng khó thoát ra. Kinh nghiệm cũng dựa vào tính hữu ích trực tiếp, và nó được giữ gìn bằng lương tri. Dưới màu sắc văn minh, dưới cái cớ tiến bộ, người ta trừ bỏ được khỏi tâm trí mọi thứ có thể là mê tín dị đoan, là ảo tưởng dù sai hay đúng; cấm bỏ được mọi cách thức tìm kiếm sự thật không hợp với thói tục. Do rất ngẫu nhiên, nhưng chỉ là bề ngoài mà mới đây một phần của thế giới tri thức, và theo ý tôi là cái phần lớn nhất, được đưa ra ánh sáng mà người ta từng giả đò không suy nghĩ về nó nữa. Cần phải biết ơn những khám phá của Freud. Dựa trên niềm tin về những khám phá ấy, cuối cùng một trào lưu quan điểm đã hình thành, nhờ đó một nhà thám hiểm nhân văn có thể đưa những tìm tòi đi xa hơn, vì được phép không chỉ quan tâm tới những hiện thực sơ lược. Trí tưởng tượng có thể sắp sửa giành lại quyền của mình. Nếu những chiều sâu trong trí óc chúng ta bộc lộ những sức mạnh xa lạ có khả năng làm tăng lên những sức mạnh thể hiện trên bề mặt, hay chiến thắng chúng, thì tất nhiên là cần nắm lấy chúng, trước tiên là nắm lấy, để sau đó tìm cách chế ngự chúng theo sự điều khiển của lý trí chúng ta, nếu có thể. Bản thân các nhà phân tích cũng có lợi. Nhưng điều quan trọng là phải thấy rằng không có một phương tiện nào được chỉ định làm cái tiên nghiệm cho việc thực thi công việc này, rằng để đạt tới trật tự mới thì việc thực thi ấy có thể coi như là động lực của các nhà thơ cũng như là các nhà thông thái và rằng thành công của nó không phụ thuộc vào những con đường ít nhiều ngoắt ngoéo được chọn.
Freud phê bình giấc mơ là rất đúng. Quả là không thể chấp nhận được rằng phần đáng kể ấy của hoạt động tâm lý (bởi vì ít nhất là từ khi sinh ra tới khi chết đi của con người, tư duy không hề liên tục, tổng số các thời điểm mơ mộng - về phương diện thời gian chỉ tính ngay giấc mơ thuần khiết tức là giấc mơ khi ta ngủ - cũng không kém tổng số thời khắc của hiện thực, mà chúng ta hãy tạm gọi là: các thời khắc thức) còn ít được chú ý như thế. Đối với người quan sát thông thường, sự khác nhau tới cực hạn về tầm quan trọng, về sự nghiêm trọng được thể hiện ở các sự kiện khi thức và các sự kiện khi ngủ, đều luôn làm tôi ngạc nhiên. Vấn đề là khi ngừng ngủ con người trước hết là đồ chơi của trí nhớ mình, và ở trạng thái bình thường, trí nhớ thích tái hiện một cách mờ nhạt tình huống giấc mơ, tách bỏ giấc mơ khỏi mọi hậu quả hiện tại, và làm cho cái quyết định duy nhất rời khỏi vị trí mà trong vài giờ trước con người tin là đã bỏ quên: niềm hy vọng lớn lao này, nỗi băn khoăn ấy. Con người có ảo tưởng tiếp tục cái gì đó rất đích đáng. Giấc mơ như thế là được dẫn vào một dấu ngoặc đơn, giống như ban đêm vậy. Và không hơn gì ban đêm, nói chung giấc mơ không mang tới lời khuyên. Tình trạng đặc biệt này dường như gợi cho tôi một vài suy tư:
1. Trong các giới hạn mà giấc mơ hoạt động (có thể coi như hoạt động), tùy theo mọi biểu hiện thì giấc mơ là liên tục và thể hiện dấu vết có tính tổ chức. Chỉ có trí nhớ là tự cho mình cái quyền cắt vụn giấc mơ, không đếm xỉa tới những đoạn chuyển tiếp và cho chúng ta biết là một chuỗi giấc mơ chứ không phải là giấc mơ. Tương tự như thế, trong mỗi thời điểm chúng ta chỉ có một hình ảnh khác biệt của những hiện thực, mà sự phối hợp để tạo ra hình ảnh ấy lại phụ thuộc vào ý chí (1). Điều cần lưu ý, đó là không gì cho phép chúng ta quy nạp các yếu tố cấu thành giấc mơ về một sự biến mất lớn hơn. Tôi lấy làm tiếc khi nói tới điều ấy theo một công thức về nguyên tắc loại trừ giấc mơ. Lúc nào thì các nhà lôgic, các nhà triết học đi ngủ? Tôi muốn ngủ, để có thể thổ lộ tâm tình với những người đang ngủ, hệt như tôi thổ lộ với những người đang đọc tôi bằng đôi mắt mở to; để về mặt này không làm cho nhịp điệu có ý thức của tư tưởng trong tôi thắng thế nữa. Giấc mơ của tôi vào đêm qua, có thể nó theo đuổi giấc mơ đêm hôm trước, nó cũng có thể được đêm sau đó nối tiếp một cách chặt chẽ đáng khen. Rất có thể, như người ta vẫn nói. Bởi vì không có gì chứng minh được rằng, cái "hiện thực" choán lấy tôi vẫn tồn tại ở trạng thái mơ mộng, rằng hiện thực không hề ẩn đi trong sự lãng quên, tại sao tôi lại không chấp nhận ở giấc mơ điều mà đôi khi tôi chối từ ở thực tế, tại sao tôi không chấp nhận điều xác thực này ở chính nó, trong thời gian tồn tại của nó, không được tôi thừa nhận? Tại sao tôi lại chờ đợi từ chỉ dẫn của giấc mơ ít hơn cả việc tôi chờ đợi từ một mức độ ý thức ngày một cao hơn? Giấc mơ phải chăng cũng có thể dùng được cho việc giải quyết các vấn đề cơ bản của cuộc sống? Những vấn đề đó, phải chăng là như nhau trong cả trường hợp này cũng như trường hợp kia, và trong giấc mơ, những vấn đề ấy đã được đặt ra rồi? Giấc mơ phải chăng ít nặng nề hơn so với cái còn lại? Tôi già đi và hơn cả hiện thực mà tôi tin là mình buộc phải tuân theo, có thể giấc mơ, sự thờ ơ đối với giấc mơ làm tôi trở nên già đi.
2. Lại một lần nữa tôi nói về trạng thái thức đêm. Tôi buộc phải coi trạng thái ấy như một hiện tượng giao thoa. Trong những điều kiện ấy, không những lý trí (2) chứng tỏ một xu hướng xa lạ hướng về việc mất hướng (chuyện nói nhịu và lầm lẫn đủ kiểu bắt đầu hé lộ cho chúng ta bí mật), mà còn trong quá trình hoạt động bình thường hình như lý trí cũng không tuân theo nhiều điều khác ngoài những gợi ý đến với lý trí từ đêm khuya ấy, mà tôi khuyên nên có. Dù được sắp xếp tốt như thế nào thì sự cân bằng của lý trí vẫn là tương đối. Lý trí hầu như không dám tự bộc lộ, và nếu nó làm điều ấy, chính là để tự hạn chế đưa ra nhận xét rằng ý tưởng này, người phụ nữ kia đã gây ấn tượng cho nó. Thật là ấn tượng việc có lẽ lý trí bất lực khi diễn tả điều ấy, nhưng qua đó nó nêu ra giới hạn của tính chủ quan chứ không hơn. Ý tưởng này, người phụ nữ này làm lý trí bối rối, nó làm lý trí trở nên bớt nghiêm khắc hơn. Nó ủng hộ hành động để trong giây lát tách sự nghiêm ngặt khỏi dung môi của nó, nếu có thể để phơi nó ra giữa trời thành một chất kết tủa đẹp. Thất vọng vì không hiểu điều xảy ra, lý trí thế là viện cớ cái ngẫu nhiên, vốn là vị thánh còn tối tăm hơn cả, và nó gán mọi sai lầm của mình cho cái ngẫu nhiên. Ai có thể nói cho tôi rằng ở góc độ xuất hiện của ý tưởng này điều mà anh ta yêu mến trong mắt người phụ nữa kia lại không phải chính là cái gắn bó anh ta với giấc mơ của mình, cái ràng buộc lý trí với những dữ kiện mà anh ta đánh mất do sai lầm của mình? Nếu khác thì liệu có thể làm gì được anh ta? Tôi rất muốn đưa cho anh ta chiếc chìa khóa của hành lang ấy.
3. Lý trí của người đang mơ hoàn toàn hài lòng với tất cả những gì xảy đến với anh ta. Câu hỏi đáng sợ về khả năng không được đặt ra nữa. Hãy giết, hãy bay nhanh hơn, hãy yêu chừng nào nó làm anh hài lòng. Nếu anh chuyển động, liệu anh có chắc là thức dậy giữa những xác chết? Hãy để tự mình điều khiển, các sự kiện không cho phép anh hoãn chúng lại. Anh không có tên gọi. Sự dễ dàng của mọi thứ là không thể đánh giá được.
4. Khi giấc mơ được nghiên cứu một cách có hệ thống với những phương pháp rõ ràng, chúng ta sẽ hiểu được trọn vẹn về giấc mơ (và điều ấy đòi hỏi một khoa học về trí nhớ của nhiều thế hệ; chúng ta hãy bắt đầu ngay lập tức bằng việc ghi lại những sự việc nổi bật), khi đó đường biểu diễn của giấc mơ sẽ phát triển một cách đều đặn và với một quy mô không ngờ, người ta có thể hy vọng rằng những sự huyền bí không phải là như thế sẽ nhường chỗ cho sự Huyền bí lớn lao. Tôi tin vào sự biến đổi trong tương lai của hai trạng thái này, có vẻ như hoàn toàn đối lập với nhau là giấc mơ và hiện thực, thành một dạng hiện thực tuyệt đối là siêu thực, nếu ta có thể nói như vậy. Đấy là đích cuộc chinh phục của tôi, dù chắc chắn là không thể, nhưng không vì lo âu trước cái chết để bỏ qua một chút niềm vui được sở hữu này.
Người ta kể rằng, mỗi một ngày vào lúc đi ngủ, Saint-Pol-Roux lại cho treo trên cổng tư thất của mình ở Camaret một tấm biển viết rằng: Nhà thơ đang làm việc.
Còn có nhiều điều để nói, nhưng tiện đây tôi chỉ muốn lướt qua một chủ đề, mà chỉ riêng nó thôi cần một bài viết rất dài và kỹ lưỡng mà tôi sẽ trở lại sau. Còn lần này, ý định của tôi là phê phán sự căm ghét cái huyền ảo vốn có ở một số người, họ luôn muốn đem sự huyền ảo ra làm trò cười. Hãy nói thẳng ra là cái huyền ảo luôn đẹp, bất kỳ cái huyền ảo nào cũng đẹp, thậm chí chỉ cái huyền ảo mới đẹp.
Trong lĩnh vực văn học, chỉ điều huyền ảo là có khả năng làm cho các tác phẩm có một gốc gác thấp như tiểu thuyết và nói chung tất cả những gì thuộc về truyện kể giai thoại phát triển được. Tu sĩ của Lewis là một chứng cứ cho điều này. Cái huyền ảo mang lại sức sống cho toàn bộ tác phẩm. Trước khi tác giả giải phóng cho tất cả các nhân vật chính trong truyện khỏi mọi sự câu thúc của thời gian, người ta cảm thấy họ sẵn sàng hành động một cách trung thành chưa từng có. Tham vọng ấy về sự bất tử không ngừng thúc bách họ đã mang lại những dấu nhấn không thể quên cho nỗi đau khổ của họ và cho cả tôi. Tôi cảm thấy là cuốn sách ấy từ đầu cho tới cuối và cũng là một cách thuần khiết nhất trong thế giới chỉ kích thích điều gì thuộc về trí tuệ có khao khát thoát khỏi được mặt đất và vì thiếu đi một phần vô vị của ý nghĩa ngụ ngôn kiểu tiểu thuyết theo lối đương thời mà cuốn sách ấy đã tạo nên một mẫu hình chính xác và vĩ đại một cách tự nhiên (3). Tôi có cảm giác là người ta không thể làm tốt hơn và rằng đặc biệt nhân vật Mathilde là một sáng tạo xúc động nhất mà người ta có thể làm cho trở thành có hiệu quả trong thế giới tưởng tượng ở văn học. Đấy không chỉ là một nhân vật có một sự cám dỗ tiếp tục sống thay anh ta. Nếu một nhân vật không phải là một sự cám dỗ thì nó là gì? Cám dỗ cực điểm chính là nhân vật. Câu nói "không có điều gì không thể làm được nếu dám" mang lại cho Tu sĩ toàn bộ kích thước đầy thuyết phục của nó. Những gì xuất hiện ở đây đều mang tính hợp lý của nó. Thậm chí ngay cả sự trừng phạt với Ambrosio được xử lý theo cách hợp thức, vì sự trừng phạt ấy cuối cùng được lý trí phê phán chấp nhận như một cách cởi nút tự nhiên.
Có lẽ là độc đoán khi tôi giới thiệu mô hình này để nói về điều huyền ảo, mô hình mà các nền văn học phương Bắc và phương Đông đã vay mượn rất nhiều, không đề cập những nền văn học thuần tôn giáo của mọi quốc gia. ấy là phần lớn các ví dụ có thể được những nền văn học đó cung cấp cho tôi đều bị bôi xấu vì sự ngây thơ, bởi lý do duy nhất là chúng được dành cho trẻ em. Từ khi còn nhỏ, các em đã bị tước đi những điều kỳ diệu, và sau đó không giữ lại đủ trinh trắng về trí tuệ để tìm đến niềm vui thú tột độ khi đọc Miếng da lừa (4). Dù các truyện cổ tích có hấp dẫn bao nhiêu chăng nữa, thì con người cũng dần mất đi niềm tin vào việc được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện cổ tích thần kỳ, và tôi thừa nhận là tất cả các câu chuyện ấy đều không phù hợp với người lớn. Chuỗi những điều huyền hoặc đáng yêu đòi hỏi phải tinh tế hơn một chút, và càng đọc thì càng muốn gặp những loài nhện... Nhưng các quyền năng không thay đổi là bao. Nỗi sợ hãi, sự hấp dẫn của cái khác thường, những niềm hạnh phúc, sở thích về sự sang trọng đều là những động lực mà người ta sẽ không bao giờ vận dụng một cách vô ích. Có những câu chuyện cổ tích cần viết cho người lớn, những câu chuyện còn gần như xanh biếc.
Điều huyền ảo không phải là như nhau ở mọi thời kỳ; nó thuộc một cách bí hiểm về một dạng phát hiện chung nhất mà chỉ có chi tiết duy nhất tới được với chúng ta: đó là những cảnh phế tích lãng mạn, là ma nơ canh hiện đại hay một biểu tượng khác có sức lay động đối với sự nhạy cảm con người trong cả một thời kỳ. Trong những ví dụ làm chúng ta buồn cười, điều lo lắng không vãn hồi được về con người lại luôn xuất hiện, chính bởi thế tôi coi trọng chúng, chính bởi thế mà tôi cho là chúng không thể tách khỏi một vài quá trình sáng tạo thiên tài, và hơn tất cả chúng thấm nhuần một cách đau đớn. Đó là những giá treo cổ của Villon (5), những bi kịch Hy Lạp của Racine (6), những tập thơ trữ tình của Baudelaire (7). Chúng trùng hợp với một sự che khuất của cái sở thích mà tôi phải chịu đựng, chính tôi tự nhận mình có sở thích về ý tưởng một nhiệm vụ lớn lao. Trong cái sở thích xấu xa của thời đại mình, tôi cố gắng đi xa hơn bất kỳ ai khác. Với riêng mình, nếu tôi đã trải nghiệm vào năm 1820, trải nghiệm chiếc "bánh chồng đẫm máu", thì tôi không tránh "Sự giả dối" xảo quyệt và tầm thường này được Cuisin nhại nói đến, với riêng tôi để đọc lướt bao phép ẩn dụ khổng lồ, như người ta vẫn nói, tất cả mọi pha của "Chiếc đĩa bạc". Lúc này, tôi nghĩ tới một lâu đài có thể có một nửa không nhất thiết là phải đổ nát; lâu đài ấy thuộc về tôi, tôi thấy nó trong một địa điểm dân dã; không xa Paris. Phần phụ của nó kéo dài mãi, còn về bên trong, nó đã được khôi phục một cách khủng khiếp, sao cho không để lại bất cứ điều gì mong muốn về phương diện tiện nghi. Những chiếc ôtô đỗ trước cửa, rợp bóng những cái cây. Một vài người bạn của tôi ở hẳn nơi đó: đây là Louis Aragon lên đường; anh ấy chỉ có thời gian để chào bạn, Philippe Soupault thức dậy từ tờ mờ sáng và Paul Eluard, Eluard vĩ đại của chúng ta, còn vẫn chưa về. Kia là Robert Desnos và Roger Vitrac giải mã một chỉ dụ cổ trong một công viên về cuộc đọ sức; Georges Auric, Jean Paulhan; còn Max Morise thì đang chèo rất giỏi, và Benjamin Péret trong những phương trình chim bay của mình; Joseph Delteil; Jean Carrive; Georges Limbour, Georges Limbour (có cả một bờ rào của Georges Limbour); Marcel Noll; kia là T.Fraenkel ra hiệu cho chúng ta về quả bóng thất thường của mình, Georges Malkine, Antonin Artaud, Francis Gérard, Pierre Naville, J-A Boiffard, rồi Jacques Baron và anh trai mình, trung thực và đẹp đẽ, quả là còn bao nhiêu người khác nữa, và cả những người phụ nữ vui vẻ. Những chàng trai trẻ ấy, các bạn muốn gì nếu họ từ chối, những mong muốn của họ, bởi sự giàu có, đều là mệnh lệnh. Francis Picabia tới gặp chúng tôi tuần vừa rồi trong hành lang kính, và người ta đã tiếp một người có tên là Marcel Duchamp mà chưa ai biết. Picasso đi săn trong vùng lân cận. Trí tuệ phi đạo đức đã được chọn làm chính quán trong lâu đài, và chúng tôi có chuyện với trí tuệ mỗi một khi có vấn đề quan hệ với những người tương tự chúng tôi, nhưng các cánh cửa luôn rộng mở và người ta không bắt đầu bằng việc "cám ơn" thế giới, các bạn biết đấy. Vả lại, nơi hiu quạnh thì rất rộng, chúng ta không gặp nhau thường xuyên. Rồi điều chủ yếu có phải là chúng ta là chủ của chính mình, những người chủ của giới phụ nữ, và cả tình yêu?
Người ta thuyết phục tôi tin bằng những lời nói dối thi vị: người nào ra đi đều nói rằng tôi ở phố Suối, và rằng anh ta sẽ không uống thứ nước này. Tất nhiên! Nhưng lâu đài này mà tôi mang đến cho anh ta những niềm vinh dự của nó, có chắc đó là một hình ảnh? Nếu cung điện này lại tồn tại thì sao! Những người khách của tôi ở đó để đáp lễ; sự đỏng đảnh của họ là con đường ánh sáng dẫn tới đó. Đúng là chúng tôi sống bằng sự tưởng tượng của chính mình, khi chúng tôi ở đó. Và cái mà người này có thể làm phiền người kia ở nơi tránh khỏi cuộc săn đuổi tình cảm và ở cuộc gặp gỡ của những cơ hội là như thế nào?
Con người dự định và quyết định. Quyền tự chủ hoàn toàn phụ thuộc con người, nghĩa là quyết định duy trì ở tình trạng vô chính phủ cái băng đảng mỗi một ngày lại thêm đáng ngờ bởi những ham muốn của chính mình. Thơ ca đã chỉ dẫn cho con người về tình trạng ấy. Nó mang trong mình sự bù trừ hoàn hảo những điều khó chịu mà chúng ta phải chịu đựng. Nó có thể là một người điều hành, do vậy chỉ hơi một chút dưới ảnh hưởng của một sự thất vọng không thầm kín lắm, người ta đã dám coi nó như một việc vô cùng nghiêm trọng. Thời đại hãy tới vào lúc thơ ca ra sắc lệnh hủy bỏ tiền bạc và cắt đứt chỉ riêng cái bánh của bầu trời dành cho đất! Sẽ còn có những đám đông tụ tập tại những địa điểm công cộng và những trào lưu mà bạn muốn tham gia. Vĩnh biệt những sự lựa chọn phi lý, những giấc mơ vực thẳm, những sự ganh đua, những sự kiên trì đằng đẵng, sự thấm thoát của các mùa, trật tự giả tạo của các ý tưởng, đường dốc của sự nguy hiểm, thời gian dành cho tất cả! Người ta vất vả biết bao chỉ với việc làm thơ. Phải chăng chính chúng ta, những người đang sống bằng thơ là cố gắng làm cho điều mà chúng ta coi như việc điều tra đầy đủ phong phú hơn của mình giành ưu thế?
Nào có gì quan trọng nếu có sự mất cân đối nào đó giữa lời thanh minh này và sự minh họa cho nó. Điều quan trọng là quay ngược trở lại nguồn gốc của sự tưởng tượng thi ca, và nhất là gắn bó với nguồn gốc ấy. Tôi không dám nói là đã làm được điều ấy. Cần phải dựa vào chính mình để trụ lại được trong những vùng lạc hậu ấy, nơi cái gì cũng có vẻ như rất khó khăn, nhất là nếu muốn dẫn ai đó tới. Mà ta cũng không bao giờ chắc chắn là đã đến ở đó. Càng không thích bao nhiêu thì lại càng sẵn sàng dừng ở nơi khác. Nhưng ít ra là giờ đây đã có một mũi tên chỉ hướng những xứ sở ấy và đi tới cuối cùng chỉ còn phụ thuộc vào sự chịu đựng của du khách.
Người ta biết khá chính xác con đường cần đi. Tôi đã cố tình, trong một tiểu luận về trường hợp Robert Desnos có nhan đề: Lối vào của những người đồng bóng (Entrée des médiums), kể rằng tôi đã "chú ý tới các câu văn ít nhiều có phần riêng biệt, hoàn toàn cô độc, lại gần lúc sắp ngủ, nên những câu văn ấy có thể được lý trí cảm nhận, mà ta không thể khám phá ra ở chúng một nguyên nhân tiên quyết nào cả". Thế là tôi vừa mới mạo hiểm với một cuộc phiêu lưu thi ca ít may mắn nhất, nghĩa là những cảm hứng của tôi cũng chính là những cảm hứng như của ngày hôm nay, nhưng tôi đã có niềm tin vào sự chậm chạp của quá trình soạn thảo để thoát khỏi những cuộc gặp vô ích bị tôi đã bài xích một cách cao thượng. Còn sót lại cái gì đó nơi ấy kiểu như sự e lệ trong tư duy của tôi. Cuối đời mình, có lẽ tôi sẽ nói được một cách khó khăn như người ta nói, sẽ biện giải được cho giọng nói của mình và số ít những hành vi của mình. Tôi cho rằng năng lực của lời nói (của lối viết: còn hơn thế nữa) có vẻ như gắn với năng lực rút ngắn một thông báo theo lối đột ngột (là bởi vì đã có bản trình bày) về một số lượng ít ỏi các sự kiện, một thông báo thi ca hay những cái khác mà tôi đã nắm được bản chất. Tôi hình dung rằng Rimbaud cũng làm thế thôi. Bằng một sự ưu tư đa dạng xứng đáng hơn cả, tôi sáng tác những bài thơ cuối cùng của Dãy núi sùng đạo (Mont de piété), nghĩa là tôi tận dụng hết mức những dòng chữ trắng của cuốn sách ấy. Những dòng này là sự hoàn toàn tin tưởng vào những phép toán của tư duy mà tôi tưởng như cần phải tránh cho độc giả. Về phần tôi, đó không phải là trò cờ gian bạc lận, mà là sự yêu thích được đối xử thô bạo. Tôi giành được ảo tưởng về một sự đồng lõa có thể, mà tôi càng ngày càng không cần đến nó. Tôi bắt đầu chăm chút một cách quá mức các từ ngữ vì không gian được chúng chấp nhận quanh mình, cho những tiếp tuyến của chúng với vô số các từ khác không được tôi nói đến. Bài thơ Cánh rừng đen là một ví dụ điển hình về trạng thái tinh thần ấy. Tôi đã dành sáu tháng để viết bài thơ mà không hề được nghỉ ngơi lấy một ngày. Nhưng do đó là sự tự trọng của tôi, thì phải chăng thời gian là không đủ, rồi người ta sẽ hiểu tôi. Tôi thích những lời thú tội ngu ngốc ấy. Trong thời gian đó, thứ giả-thi ca lập thể cố tìm cách cắm rễ, nhưng thứ thi ca ấy đã ra khỏi đầu óc của Picasso không hề tự vệ, và riêng phần mình thì tôi còn có thể được coi như người buồn tẻ giống như cơn mưa (tôi vẫn còn bỏ qua điều ấy). Tuy thế tôi nghi ngờ rằng, theo quan điểm thi ca, tôi đã đi sai đường, nhưng tôi đã tự cứu mình theo cách của tôi, tôi thách thức tính chất trữ tình bằng các định nghĩa và bằng các công thức (các hiện tượng Dada chẳng bao lâu sẽ xảy ra) và làm ra vẻ tìm kiếm một cách áp dụng thơ ca vào trong quảng cáo (tôi cho rằng thế giới sẽ kết thúc, không phải bằng một quyển sách đẹp mà bằng một quảng cáo đẹp đẽ cho địa ngục hay thiên đường).
Cùng thời kỳ ấy, Pierre Reverdy, một người, ít ra cũng buồn tẻ như tôi, đã viết:
Hình ảnh là một sự sáng tạo thuần khiết của lý trí
Nó không sinh ra từ một sự so sánh mà là từ sự xích lại gần nhau của hai hiện thực ít nhiều xa nhau
Những mối quan hệ của hai hiện thực được so sánh càng xa và càng chính xác thì hình ảnh sẽ lại càng mạnh - nó sẽ lại càng gây xúc động mạnh và có tính hiện thực thi ca (8) v.v...
Những từ này, dù là bí ẩn đối với những kẻ ngoại đạo, lại rất có ý nghĩa khai mở và tôi thường trầm tư lâu về chúng. Nhưng hình ảnh lại trốn bỏ tôi. Mỹ học của Reverdy, mỹ học hoàn toàn có tính hậu nghiệm làm cho tôi coi các hậu quả là nguyên nhân. Chính do đó mà tôi đi tới việc từ chối một cách dứt khoát quan điểm của mình.
Thế là một tối trước khi thiếp đi, tôi nghe thấy một câu nói khá kỳ quặc được cấu âm một cách rõ ràng tới mức không thể thay đổi một từ nào, nhưng không mang dấu vết gì của giọng nói, câu nói ấy đến với tâm trí tôi không có chút dấu vết nào của những sự kiện mà theo sự thú nhận của ý thức là đã trải qua vào cái khoảnh khắc ấy, tôi cảm thấy câu nói ấy được nhấn mạnh, có lẽ tôi dám nói là cái câu ấy nó nện vào kính. Tôi hình dung ngay được về nó và sắp bỏ qua thì đặc điểm có tính tổ chức của nó làm tôi chú ý. Quả thật, câu này làm tôi ngạc nhiên; tôi không may đã quên mất nó vào ngày hôm nay, đại loại như là: "Có một người bị cắt làm đôi ở cửa sổ", nhưng câu nói ấy không hề lập lờ chơi chữ, vì có kèm theo lối biểu hiện mơ hồ hình ảnh (9) một người đang đi và bị một cái cửa sổ vuông góc cắt khúc thành hai nửa. Rõ ràng đấy là việc dựng lại một cách đơn giản trong không gian một người nghiêng người qua cửa sổ. Nhưng vì cái cửa sổ này cùng chuyển động với người đó, nên tôi nhận thấy rằng mình đang thấy một hình ảnh thuộc kiểu khá hiếm và tất nhiên tôi nhanh chóng trộn nó với chất liệu thi ca của mình. Đối với hình ảnh ấy, tôi đã không tin sớm hơn rằng nó dù sao cũng được thay thế bằng một sự kế tiếp gần như là gián đoạn của những câu văn, những câu ấy không làm cho tôi ngạc nhiên lắm và bỏ mặc tôi dưới ấn tượng về một sự không nguyên cớ tới mức sự tự chủ của tôi cho tới lúc ấy dường như là ảo tưởng, giống như tôi chỉ còn nghĩ đến việc chấm dứt cuộc tranh cãi bất tận đã xảy đến trong tôi (10).
(Còn nữa)
Phùng Kiên dịch từ nguyên bản tiếng Pháp
Phương Ngọc hiệu đính
----------------
Chú thích:
(1) Cần phải tính tới độ dầy của giấc mơ. Nói chung, tôi chỉ giữ lại điều xảy ra với tôi từ những lớp giấc mơ bề nổi nhất. Ở giấc mơ, điều mà tôi thích nhất khi xem xét lại, đó là mọi thứ còn tối tăm đối với sự thức, là mọi thứ không còn lại trong tôi từ việc sử dụng của ngày hôm trước, những tán lá tối tăm, những cành nhánh ngu ngốc. Trong "hiện thực" cũng thế, tôi thích rủ xuống hơn.
(2) Có lẽ ở đây Breton dùng chữ esprit với ý nghĩ tương phản với rêve (giấc mơ), vì thế chúng tôi tạm dịch là lý trí. (N.D).
(3) Có điều kỳ lạ trong cái kỳ ảo, đấy là không còn sự kỳ ảo nữa mà chỉ là hiện thực.
(4) Tên một tác phẩm của nhà văn hiện thực Pháp H.Balzac (1799-1850) mang tính huyền ảo lấy cảm hứng từ một số huyền thoại cổ. (N.D).
(5) Có lẽ Breton muốn nhắc đến François Villon (khoảng 1431-1463?), nhà thơ Pháp thời Trung đại, tác giả tập thơ nổi tiếng Khúc ba lát của những người bị treo cổ (Ballade des pendus). Thơ của Villon bị ám ảnh bởi cái chết và có ảnh hưởng lớn tới các nhà thơ thế kỷ XIX, đặc biệt các nhà thơ lãng mạn như Théophile Gautier. (N.D).
(6) Jean Racine (1639-1699): nhà soạn kịch cổ điển chủ nghĩa trong lịch sử văn học Pháp với những tác phẩm mẫu mực lấy đề tài trong sử Hy lạp. (N.D).
(7) Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ Pháp bị kết án năm 1857 vì xuất bản tập thơ Hoa ác, ông là người được coi là dấu mốc cho sự xuất hiện của cảm hứng thơ ca hiện đại Pháp. (N.D).
(8) Bắc-Nam, tháng ba. 1918.
(9) Vẽ, lối biểu hiện bằng thị giác này có lẽ đối với tôi vượt trội hơn so với những cách khác. Chắc chắn là có những khả năng tiên quyết quyết định điều này. Từ ngày hôm nay, xảy đến với tôi việc tập trung một cách tự nguyện sự chú ý của mình tới những xuất hiện tương tự và tôi biết rằng những xuất hiện ấy không hề nhường chuyện này một cách minh bạch cho những hiện tượng thính giác. Có một cây bút chì và một tờ giấy trắng, tôi sẽ thấy dễ dàng khi đi theo những đường viền của nó. Đó không phải là vẽ, chỉ là căn ke mà thôi. Tôi cũng hình dung như thế một cái cây, một ngọn sóng, một nhạc cụ, tất cả mọi thứ mà tôi không thể cung cấp vào lúc này bản tổng quan nhất. Tôi đi sâu, với niềm tin chắc gặp lại được chính mình, vào trong một mê cung những đường thẳng dường như đối với tôi không đồng quy vào đâu. Và tôi cảm thấy điều ấy, khi mở đôi mắt, một ấn tượng rất mạnh về điều "chưa bao giờ thấy". Chứng cớ của điều mà tôi đưa ra đã nhiều lần được Robert Desnos làm thử: để tin vào điều ấy, chỉ cần giở trang giấy số 36 của Những tờ giấy trắng chứa rất nhiều hình vẽ của ông (Roméo và Juliette, Một người đàn ông chết sáng nay) mà việc xem xét lại này bắt gặp đối với những hình họa của kẻ điên rồ và được xuất bản một cách không ác ý như thế.
(10) Knut Hamsun đặt dạng phát hiện này dưới sự phụ thuộc của cái đói, tôi đã từng là miếng mồi cho sự phát hiện ấy, và có lẽ anh ta đã sai lầm. (Vấn đề là không phải ngày nào tôi cũng ăn vào thời kỳ ấy cả). Đột nhiên, vẫn có những biểu hiện mà ông ta kể lại bằng những từ như thế này:
"Hôm sau, tôi thức dậy sớm. Trời còn tối. Đôi mắt tôi mở từ lâu, nhưng tôi nghe thấy tiếng đồng hồ quả lắc của phòng phía dưới điểm năm giờ. Tôi muốn ngủ lại, nhưng không thể, tôi thức hẳn, và cả ngàn chuyện luẩn quẩn trong đầu tôi.
Đột nhiên, một vài miếng ăn rất ngon xảy đến với tôi, chỉ dành riêng trong một bản phác thảo, trong mục tiểu phẩm; một cách rất ngẫu nhiên tôi đột nhiên tìm thấy những câu văn rất đẹp hệt như chưa bao giờ tôi viết được. Tôi lặp lại chúng một cách chậm chạp, từng từ một, những câu văn ấy thật tuyệt. Nó vẫn thường xảy ra như thế. Tôi đứng dậy, vớ lấy tờ giấy và một cây bút chì trên bàn đằng sau giường tôi. Hệt như là một mạch máu vỡ tung trong tôi, từ này tiếp từ kia, kế tiếp nhau, thích hợp với tình huống, cảnh chồng chất, hành động diễn ra những lời đối đáp nổi lên trong trí óc tôi, tôi vui một cách kỳ diệu. Những tư tưởng đến với tôi vô cùng nhanh chóng và tiếp tục chảy một cách dồi dào tới mức tôi đánh mất hàng đống những chi tiết tinh tế, bởi vì cây bút chì của tôi không thể đi nhanh được, trong khi tôi rất vội, tay luôn chuyển động, tôi không bỏ phí một phút. Những câu văn tiếp tục thúc đẩy tôi, tôi đắm mình trong chủ đề của mình".
Apollinaire đã khẳng định rằng những bức tranh đầu tiên về Chirico đã được vẽ dưới ảnh hưởng những rối loạn mang tính cảm giác bản thể (như chứng đau nửa đầu, đau ruột kết).
Tạp chí văn học nước ngoài, số 5/2004